Thông tư 337/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Thông tư số 503/TT-LB ngày 25/05/1995 của Liên Bộ Tư pháp - Ngoại giao - Nội vụ quy định chi tiết thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt nam và người nước ngoài do Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 337/TT-BTP
Ngày ban hành 23/08/1995
Ngày có hiệu lực 23/08/1995
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Nguyễn Ngọc Hiến
Lĩnh vực Dịch vụ pháp lý,Quyền dân sự

BỘ TƯ PHÁP
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 337/TT-PLQT

Hà Nội, ngày 23 tháng 8 năm 1995

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA THÔNG TƯ SỐ 503/TT-LB NGÀY 25/05/1995 CỦA LIÊN BỘ TƯ PHÁP - NGOẠI GIAO - NỘI VỤ QUY ĐỊNH CHI TIẾT VỀ THỦ TỤC KẾT HÔN, NHẬN CON NGOÀI GIÁ THÚ, NUÔI CON NUÔI, NHẬN ĐỠ ĐẦU GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Căn cứ Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 12 năm 1993 (sau đây gọi là Pháp lệnh) và Nghị định số 184-CP ngày 30 tháng 11 năm 1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định số 184-CP);

Căn cứ điểm 2, mục V Thông tư số 503 - TT/LB ngày 25 tháng 5 năm 1995 của Liên Bộ Tư pháp - Ngoại giao - Nội vụ hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định số 184 – CP ngày 30 tháng 11 năm 1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (sau đây gọi là Thông tư số 503 - TT/LB);

Qua thực tiễn áp dụng Thông tư số 503-TT/LB và theo Nghị định của Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại Hội nghị tập huấn các tỉnh phía Nam và các tỉnh phía Bắc tháng 6 và tháng 7 năm 1995;

Sau khi trao đổi ý kiến với Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Thông tư số 503/TT-LB như sau:

Về phạm vi điều chỉnh:

Thông tư số 503 – TT/LB hướng dẫn thi hành thủ tục thực hiện 6 công việc sau đây về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài:

Đăng ký việc kết hôn;

Công nhận việc kết hôn đã được đăng ký ở nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài;

Công nhận việc cha, mẹ nhận con ngoài giá thú;

Đăng ký việc nuôi con nuôi;

Công nhận việc nuôi con nuôi đã được đăng ký ở nước ngoài tại cơ quan cơ thẩm quyền của nước ngoài;

Công nhận việc đỡ đầu.

Như vậy, Thông tư số 503-TT/LB không điều chỉnh các vấn đề thuộc thẩm quyền của Toà án (huỷ việc kết hôn trái pháp luật, ly hôn, giải quyết tranh chấp về nuôi con nuôi v.v...) và cũng không điều chỉnh các vấn đề khác, ngoài 6 công việc nếu trên, về hộ tịch giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, như đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn lại, sửa đổi họ tên, ngày tháng năm sinh, cải chính hộ tịch v.v...

Về chủ thể quan hệ, Thông tư số 503-TT/LB chỉ điều chỉnh một loại quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài - đó là quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.

Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch. Căn cứ vào văn bản pháp luật này, người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa thôi quốc tịch Việt Nam hoặc chưa bị tướng quốc tịch Việt Nam, vẫn là công dân Việt Nam, mặc dù có thể đã vào quốc tịch của nước khác; và Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.

Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài (không đồng thời có quốc tịch Việt Nam) và không quốc tịch.

Như vậy, Thông tư số 503 – TT/LB không điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình giữa người nước ngoài với nhau tạm trú hoặc thường trú tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam mà không thuộc diện một bên định cư ở nước ngoài.

Căn cứ vào Điều 22 của Pháp lệnh và khoản 2 Điều 36 Nghị định số 184-CP, Thông tư số 503-TT/LB quy định việc áp dụng các quy định của Thông tư này đối với việc đăng ký kết hôn, công nhận việc kết hôn, công nhận việc cha, mẹ nhận con ngoài giá thú, đăng ký nuôi con nuôi, công nhận việc nuôi con nuôi và công nhận việc đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài. Khái niệm "định cư" ở nước ngoài được hiểu là thường trú liên tục và dài hạn ở nước ngoài.

Các trường hợp công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài, như ra nước ngoài có thời hạn nhằm mục đích công tác, học tập, lao động, thăm thân, du lịch, chữa bệnh, mặc dù đã quá thời hạn tạm trú ở nước ngoài, nhưng không được nước ngoài tiếp tục cho cư trú không thuộc khái niệm "công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài". Các trường hợp ra nước ngoài bất hợp pháp, nhưng không được nước ngoài tiếp tục cho cư trú, cũng không thuộc khái niệm "công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài". Các việc đăng ký kết hôn, công nhận việc kết hôn, công nhận ciệc cha, mẹ nhận con ngoài giá thú, đăng ký nuôi con nuôi, công nhận việc nuôi con nuôi và công nhận việc đỡ đầu giữa họ với nhau hoặc giữa họ với công dân Việt Nam thương trú ở trong nước, được thực hiện theo các quy định chung của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, nếu là việc xin đăng ký kết hôn, thì bên công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài phải có giấy xác nhận của Cơ quan đại diện ngoại giao hoặc Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước đó xác định hiện tại đương sự là người chưa có vợ, có chồng.

Về đăng ký kết hôn:

Khi nộp hồ sơ xin đăng ký kết hôn, không bắt buộc cả hai bên đương sự phải có mặt, chỉ cần một bên công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài trình diện và nộp hồ sơ là đủ, với điều kiện bên vắng mặt trước đó đã làm đầy đủ các thủ tục về hồ sơ theo quy định của Thông tư số 503-TT/LB.

Về bản sao Giấy khai sinh của mỗi bên đương sự, về nguyên tắc, đây là một trong các giấy tờ bắt buộc phải có trong hồ sở khi xin đăng ký kết hôn. Trong thực tiễn, căn cứ vào bản sao Giấy khai sinh, một số sở Tư pháp đã ngăn chặn được các trường hợp xin kết hôn, vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ dòng máu, họ hàng. Do đó, chỉ trong trường hợp thật đặc biệt như nước ngoài không quy định việc khai và cấp Giấy khai sinh, thì mới cho phép đương sự được miễn nộp bản sao Giấy khai sinh. Tuy nhiên, để thay thế, đương sự phải nộp Giấy chứng nhận ngày, tháng, năm sinh do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đó cấp; hoặc Giấy xác nhận của Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của nước ngoài đó xác nhận việc pháp luật nước đó không quy định việc cấp Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận ngày, tháng, năm sinh. Trường hợp đương sự là người Việt Kiều về nước trước đây chưa khai sinh hoặc mất Giấy khai sinh, thì phải làm thủ tục khai sinh hoặc khai sinh lại trước.

Về giấy xác nhận của tổ chức y tế, Nghị định số 184-CP và Thông tư số 503-TT/LB không quy định bắt buộc phải là của tổ chức y tế của Việt Nam cấp, miễn là tổ chức y tế đó phải là tổ chức y tế có thẩm quyền về chuyên môn được Sở Tư pháp chấp nhận và Sở Tư pháp phải chịu trách nhiệm về việc chấp nhận đó.

Quy định này cũng được áp dụng đối với trường hợp nuôi con nuôi.

Về trình tự phối hợp giữa Sở Tư pháp và cơ quan Công an cung cấp. Sở Tư pháp không phải gửi bộ hồ sơ gốc, mà chỉ cần gửi công văn cho cơ quan Công an, trong đó nêu rõ yêu cầu đề nghị thẩm tra, xác minh đối với cả hai bên đương sự. Tuỳ theo các yêu cầu cụ thể. Sở Tư pháp quyết định các giấy tờ cần phải gửi kèm theo Công văn đó và chịu trách nhiệm về quyết định đó.

Quy định này cũng được áp dụng đối với trường hợp nuôi con nuôi.

[...]