Thông tư 32-NV/CB năm 1959 hướng dẫn việc tuyển dụng vào biên chế do Bộ Nội Vụ ban hành

Số hiệu 32-NV/CB
Ngày ban hành 01/07/1959
Ngày có hiệu lực 16/07/1959
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ
Người ký Phan Kế Toại
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 32-NV/CB

Hà Nội, ngày 01 tháng 07 năm 1959 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN VIỆC TUYỂN DỤNG VÀO BIÊN CHẾ

Kính gửi: Các Bộ, các cơ quan trung ương, Ủy ban Hành chính các khu, tỉnh và thành phố

Tại công văn số 2477-NC ngày 20-06-1959 Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý để các ngành, các cấp còn thiếu cán bộ, công nhân, nhân viên được tuyển dụng vào biên chế, đủ người làm tròn nhiệm vụ của mình.

Trong thời gian qua việc áp dụng thể lệ tuyển dụng, ở trung ương cũng như ở địa phương, lẻ tẻ ở một số cơ quan chưa có nề nếp và có nhiều thiếu sót:

- Ở một đôi nơi có tình trạng tuyển dụng để giải quyết công ăn việc làm cho người xin việc hơn là vì nhu cầu công tác.

- Về lý lịch chính trị, tình hình sức khỏe, trình độ văn hóa, khả năng chuyên môn ít được chú ý trong khi xét tuyển.

- Việc tuyển dụng ít thông qua tổ chức để lựa chọn cẩn thận. Thậm chí có nơi đã tuyển dụng người mà do cơ quan khác đã sa thải. Thời gian tập sự thử thách có nơi không áp dụng, hoặc áp dụng không thống nhất v.v...

Thi hành chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, dựa vào sắc lệnh số 76-SL ngày 20-05-1950 và căn cứ vào tình hình hiện nay Bộ Nội vụ xin đề ra: tiêu chuẩn, đối tượng và những thể lệ và tuyển dụng để việc tiến hành tuyển dụng đi vào nề nếp, đảm bảo sử thuần khiết trong khi mở rộng đội ngũ cán bộ.

I. TIÊN CHUẨN ĐỂ XÉT TUYỂN DỤNG

Việc tuyển dụng phải quán triệt những nguyên tắc mà Thủ tướng phủ đã đề ra (tại công văn số 2477-NC ngày 20-06-1959).

Về tiêu chuẩn: Người được tuyển vào cơ quan cần phải có phẩm chất chính trị tốt, có khả năng công tác và có sức khỏe bảo đảm. Cụ thể là:

- Không mất quyền công dân. Lịch sử rõ ràng. Tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và quyết tâm đi theo xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng phục vụ nhân dân.

- Có trình độ chính trị, văn hóa hoặc chuyên môn kỹ thuật đủ điều kiện đáp ứng theo yêu cầu của cơ quan cần tuyển dụng.

- Từ 18 tuổi trở lên. Tối đa không quá 35 tuổi.

- Có sức khỏe tốt, không mắc những bệnh kinh niên, truyền nhiễm và những bệnh tật không đảm bảo được công tác.

- Đối với những người thuộc dân tộc miền núi, cán bộ miền Nam, quân nhân giải ngũ hoặc phục viên, thương binh, cán bộ cũ, cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ thuật, thì tùy trường hợp cụ thể mà châm chước về tuổi, nhưng đương sự phải có sức khỏe và khả năng đảm bảo được công tác.

II. ĐỐI TƯỢNG TUYỂN DỤNG

Một trong những nguyên tắc mà Thủ tướng phủ đề ra là: tuyển dụng phải đảm bảo đường lối, chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước. Do đó trong khi xét tuyển dụng trên cơ sở các tiêu chuẩn đã nêu trên cần chú ý đến thành phần cơ bản. Trường hợp cần thiết phải tuyển dụng những người thuộc thành phần bóc lột phải đặc biệt chú ý sự chuyển biến trong quá trình cải tạo và ý thức tham gia lao động chân tay của họ. Trong tình hình hiện nay, cần xét tuyển những đối tượng sau đây:

- Cán bộ xã miền Nam ở các công trường, trại điều dưỡng, các tập đoàn sản xuất miền Nam đang gặp khó khăn hoặc kinh doanh không đúng phương hướng chung.

- Quân nhân giải ngũ hoặc phục viên quê ở các thành phố, và các nông thôn miền núi.

- Số thương binh có đủ tiêu chuẩn.

- Những người có khả năng về chuyên môn, kỹ thuật.

- Học sinh tốt nhiệp các trường chuyên nghiệp.

- Cán bộ, nhân viên làm việc từ thời kỳ kháng chiến đến hòa bình đã ra ngoài biên chế theo 06 tháng hiện đang sinh sống khó khăn.

- Những người tạm tuyển, hợp đồng, phù động đang làm những công tác có tính chất thường xuyên đã trên 1 năm (tuyển dụng số này theo hướng dẫn thông tư số 31-NV/CB  ngày 01-07-1959 của Bộ Nội vụ).

- Vợ công nhân và cán bộ thoát ly quê ở các thành phố, thị trấn hoặc từ lâu sống theo chồng nhưng không cơ sở sản xuất, hay có cơ sở mà đời sống đang gặp khó khăn, (kể cả vợ cán bộ người Kinh thiếu cơ sở sản xuất đang theo chồng hiện đang công tác ở miền núi và vợ liệt sĩ, quân nhân tại ngũ ở các thành phố không có cơ sở sản xuất, sinh sống đang khó khăn).

- Con công nhân, cán bộ, thương binh, liệt sĩ đã thôi học không có công ăn việc làm hoặc đã có nhưng tạm bợ, bấp bênh.

[...]