Thông tư 31-TTg năm 1963 bổ sung về chính sách nhân dân khai hoang do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 31-TTg
Ngày ban hành 24/04/1963
Ngày có hiệu lực 09/05/1963
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Tài chính nhà nước

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 31-TTg

Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 1963 

 

THÔNG TƯ

QUY ĐỊNH BỔ SUNG VỀ CHÍNH SÁCH NHÂN DÂN KHAI HOANG

 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Công tác khai hoang trong hai năm qua, nhờ sự cố gắng của nhân dân và cán bộ các cấp, các ngành, đã trở thành một phong trào quần chúng. Với tinh thần dựa vào sức dân là chủ yếu, Nhà nước đã ban hành một số chính sách giúp đỡ nhân dân giải quyết được một phần khó khăn về sản xuất và đời sống, nên đã thu được những kết quả bước đầu.

Để đáp ứng được yêu cầu của công tác khai hoang đẩy mạnh phong trào tiến lên một bước mới trong những năm tới, nay quy định thêm một số chính sách sau đây:

1. Về ruộng đất:

Việc phân phối sử dụng đất đai phải được hợp lý theo nội dung tinh thần chỉ thị số 14-TTg ngày 3-2-1962 và nay quy định thêm một số điểm cụ thể:

a) Đất hoang đã khai phá, sau khi được Ủy ban hành chính địa phương chứng nhận sẽ thuộc quyền sở hữu tập thể của hợp tác xã. Người khai hoang phải định canh, định cư và phải thực hiện các chế độ, thể lệ, hướng dẫn về giữ đất, giữ nước chống xói mòn, cải tạo đất đã khai hoang thành đất thục để sử dụng lâu dài.

Các cấp chính quyền địa phương có đất khai hoang có trách nhiệm theo đúng những quy định của Nhà nước, tìm địa điểm, xác định ranh giới, cắm mốc rõ ràng cho nhân dân đến khai hoang, đồng thời phải chú ý dành phần đất thích đáng cho nhân dân địa phương mở rộng diện tích phát triển sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi) sau này.

b) Đất để lại cho xã viên đi khai hoang tập thể làm nhà và làm kinh tế phụ gia đình sẽ tùy theo khả năng đất và nhân khẩu của từng hộ có thể giải quyết từ hai đến ba sào Bắc-bộ.

Đối với những người đi khai hoang xen kẽ nhập vào hợp tác xã địa phương thì có thể được để lại đất như nhân dân địa phương.

c) Đất dành cho nông trường, lâm trường quốc doanh và các cơ quan khác đã được huy hoạch và xác nhận ranh giới thì không được đưa nhân dân vào khai hoang ở những khu vực đó.

d) Đối với rừng đã cấm như rừng có giá trị kinh tế lớn, rừng lịch sử, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, v. v… tuyệt đối không được khai hoang.

đ) Hợp tác xã khai hoang phải có huy hoạch sơ bộ, tiến tới có huy hoạch toàn diện, nhất là huy hoạch sử dụng ruộng đất để tránh tình trạng lãng phí đất đai.

2. Đầu tư vốn:

Khai hoang là một công tác to lớn phải dựa vào sức dân là chủ yếu, Nhà nước căn cứ vào khả năng mà tích cực giúp đỡ các mặt cần thiết. Ngoài những chính sách đã ban hành (thông tư số 491-TTg ngày 21-12-1961 và số 95-TTg ngày 24-9-1962) nay quy định thêm một số điểm nhu sau:

a) Về sản xuất: Nhà nước chú trọng giúp đỡ để xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật nhằm phát triển kinh tế như xây dựng công trình thủy lợi phục vụ sản xuất và đời sống (kể cả máy bơm nước và máy khoan, đào giếng); mở thêm đường giao thông chính nối liền khu khai hoang tập trung với tuyến đường đã có sẵn, xây dựng cầu cống chính; dành một số máy kéo cho một số vùng khai hoang tập trung có điều kiện sử dụng được máy móc tốt và có lợi về kinh tế, giảm bớt lao động nặng nhọc; có thể xây dựng một số xưởng quốc doanh chế biến bột và dầu thảo mộc ở những nơi có những nguyên liệu và cần thiết…

Những công trình thủy lợi nhỏ, đường sá và cầu cống trong phạm vi từng cơ sở khai hoang, những cơ sở chế biến nhỏ… thì do hợp tác xã tự làm. Tùy theo tình hình cụ thể Nhà nước giúp đỡ một phần về nguyên vật liệu và kỹ thuật.

Nhà nước cho hợp tác xã vay để mở rộng sản xuất và xây dựng cơ bản, hướng cho vay chủ yếu nhằm vào việc trồng cây công nghiệp hàng năm, cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả, xây dựng đồng ruộng (làm ruộng bậc thang ở một số nơi có điều kiện, bồi dưỡng cải tạo đất, v.v…), phát triển chăn nuôi, trồng cây gây rừng, xây dựng xưởng chế biến thủ công, xưởng sản xuất và sửa chữa nông cụ… Việc cho vay phải tùy theo hình thức khai hoang tập thể hay xen kẽ, gần hay xa mà định mức độ cho thích hợp. Đối với những người đi khai hoang xen kẽ thì phải thông qua hợp tác xã hoặc Ủy ban hành chính xã nơi họ đến khai hoang để cho vay và dựa vào hợp tác xã hoặc Ủy ban hành chính xã đó mà kiểm tra việc sử dụng và thu hồi nợ.

b) Về sinh họat: ngoài những quy định giúp đỡ tiền tàu xe, thuốc men… đã ban hành, đối với các cơ sở khai hoang xã (tập thể và xen kẽ) nếu hết thời hạn trợ cấp mà thu hoạch còn kém chưa thể tự túc về thuốc men được, thì tăng thêm thời hạn được trợ cấp về thuốc men là một năm nữa (theo như đã quy định 0đ40 cho một lao động chính một tháng). Ngoài ra, Nhà nước trợ cấp cho các cháu nhỏ và người già (không còn sức lao động) đi theo gia đình đến cơ sở khai hoang một người một tháng 0đ20 trong thời gian một năm kể từ ngày đến cơ sở khai hoang về thuốc thông thường và thuốc cấp cứu. Nhà nước trợ cấp một phần cho công tác hoạt động văn hóa quần chúng trong thời gian đầu, giúp đỡ những chi phí cần thiết trong công tác tuyên tuyền, động viên.

Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể, chú ý giúp đỡ một phần tiền tàu xe cho những lao động chính cần phải về thăm quê cũ trong lúc đầu, giúp đỡ thích đáng khi gặp tai nạn lao động xét ra thật thiếu thốn.

3. Về cung cấp tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng:

a) Về lương thực và thực phẩm: Nhân dân khai hoang phải cố gắng tự giải quyết lấy lương thục một cách vững chắc, trừ trường hợp những nơi trồng cây công nghiệp hay chăn nuôi tập trung do Nhà nước quy định thì được cung cấp phần lương thực còn thiếu.

Nhân dân khai hoang cần tích cực trồng rau, chăn nuôi tiểu gia súc và thả cá để tự giải quyết về thực phẩm, địa phương có dân đến khai hoang phải cung cấp tùy theo khả năng những thứ cần thiết, nhất là lương thực và thực phẩm trong thời gian đầu.

b) Về hàng tiêu dùng, nhân dân khai hoang được phân phối như nhân dân địa phương nơi đến khai hoang nhưng lúc đầu cần được chú ý bán cho người đi khai hoang một số mặt hàng cần thiết nhất là thuốc phòng bệnh và thuốc chữa bệnh thông thường và dụng cụ sinh hoạt gia đình thật cần thiết. Riêng về vải, trong năm đầu có thể được bán thêm ngoài mức quy định chung một ít (không kể vỏ áo bông). Cần tổ chức hợp tác xã mua bán của xã để phục phụ sản xuất và đời sống nhân dân khai hoang.

c) Về tư liệu và nguyên liệu sản xuất: Nhà nước căn cứ khả năng mà cung cấp và điều hòa cho các cơ sở khai hoang các loại giống trồng trọt và chăn nuôi tốt, thích hợp với từng vùng: phân bón hóa học, thuốc trừ sâu; các công cụ như công cụ cải tiến, và nửa cơ giới, dụng cụ khai hoang cải tiến máy bơm nước, máy phun thuốc trừ sâu, máy chế biến nông sản, phương tiện vận tải cải tiến và các phương tiện vận tải khác; các loại phụ tùng và những nguyên liệu cần thiết như sắt, thép, gang, xi-măng…

Nhà nước sẽ bán cho các cơ sở khai hoang các tư liệu sản xuất và nguyên vật liệu theo giá phải chăng, có sự chiếu cố thích đáng.

4. Về thu mua, giá cả:

[...]