Thông tư 3-LN/KL-1988 hướng dẫn việc kiểm soát lâm sản do Bộ Lâm nghiệp ban hành
Số hiệu | 3-LN/KL |
Ngày ban hành | 23/02/1988 |
Ngày có hiệu lực | 09/03/1988 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Bộ Lâm nghiệp |
Người ký | Phan Thanh Xuân |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính,Tài nguyên - Môi trường |
BỘ
LÂM NGHIỆP |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3-LN/KL |
Hà Nội, ngày 23 tháng 2 năm 1988 |
I. VIỆC LẬP TRẠM KIỂM SOÁT LÂM SẢN
- Ở những tỉnh có rừng (20 tỉnh), nơi có đầu mối giao thông thuỷ, bộ vận chuyển lâm sản quan trọng, cần lập trạm kiểm soát lâm sản, Sở Lâm nghiệp báo cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh có văn bản đề nghị để Bộ ký quyết định lập trạm kiểm soát lâm sản.
Trên các trục đường giao thông thuỷ, bộ, các địa phương không được tổ chức nhiều trạm kiểm soát lâm sản, gây ảnh hưởng đến lưu thông hàng hoá.
- Ở những tỉnh có rừng và thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Sở Lâm nghiệp báo cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố ký quyết định lập đội kiểm soát lâm sản lưu động để kiểm tra, xoá bỏ các tụ điểm khai thác, mua bán, tàng trữ lâm sản trái phép.
- Đối với việc lập trạm kiểm soát cửa rừng thì các đơn vị được giao rừng quản lý, kinh doanh (liên hiệp, lâm trường, hợp tác xã, rừng quốc gia, rừng cấm...) cần thống nhất với cơ quan lâm nghiệp tỉnh để báo cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh ký quyết định thành lập trạm kiểm soát cửa rừng. Lực lượng bảo vệ rừng của các đơn vị quản lý rừng là nòng cốt tại trạm cửa rừng.
II. VIỆC TỔ CHỨC KIỂM SOÁT LÂM SẢN
Phải kiểm tra chặt chẽ việc khai thác gỗ và phương tiện vận tải ra vào rừng. Khai thác gỗ ngoài kế hoạch, gỗ gia dụng phải có giấy phép của cơ quan lâm nghiệp có thẩm quyền. Khai thác gỗ của các liên hiệp, lâm trường, các đơn vị liên kết kinh tế phải có thiết kế khai thác có phê duyệt của cấp có thẩm quyền.
Gỗ khai thác ra phải thực hiện việc đóng dấu búa kiểm lâm vào gỗ.
Các xe vào rừng nhận gỗ phải có giấy tờ và chỉ được vào đúng nơi quy định (bãi 1, bãi 2) để nhận gỗ.
2. Kiểm soát tại các trạm kiểm soát lâm sản.
- Để việc kiểm soát lâm sản có hiệu quả, đúng thủ tục phải bố trí cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân có đạo đức, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, nắm vững luật lệ về lâm nghiệp. Biên chế của trạm phải đủ để làm 3 ca liên tục. Trong khi làm nhiệm vụ, cán bộ, nhân viên kiểm lâm phải mặc đồng phục, đeo phù hiệu, cấp hiệu và số hiệu kiểm lâm nhân dân.
Tại các trạm kiểm soát lâm sản cần có lực lượng công an, quân cảnh phối hợp, hỗ trợ làm nhiệm vụ.
- Các trạm kiểm soát lâm sản (đường bộ, đường sông) phải có bảng báo hiệu cách trạm 100m. Trên bảng ghi rõ: "Trạm kiểm soát lâm sản cách 100m, Xe chở lâm sản dừng lại kiểm tra!".
Các trạm chỉ được dừng các loại xe con, xe ca chở khách để kiểm tra nếu phát hiện có chở lâm sản trái phép.
- Trong khi làm nhiệm vụ, các trạm kiểm soát lâm sản phải chấp hành nghiêm chỉnh các thủ tục quy định về kiểm soát lâm sản như ghi chép sổ sách mẫu biểu đúng quy định, sổ nhật ký kiển soát lâm sản, sổ cái B, sổ nhập xuất lâm sản tịch thu, sổ quỹ, v.v..., lập biên bản, xử lý các vụ vi phạm, giải quyết lâm sản và trích thưởng theo đúng luật lệ hiện hành.
3. Những quy định cơ bản hiện hành về quản lý rừng, quản lý vật tư gỗ và lâm sản, đặc sản rừng.
Trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng, quản lý thống nhất vật tư gỗ và lâm sản, đặc sản rừng. Nhà nước và ngành đã có nhiều văn bản quy định cụ thể. Đó là cơ sở pháp lý trong khâu kiểm soát lâm sản.
Đối với khai thác và lưu thông lâm sản, Bộ yêu cầu các đơn vị chấp hành những quy định sau:
- Về khai thác rừng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Bộ như Chỉ thị số 10-LN/KL ngày 12-4-1985, Thông tư số 14-CNR ngày 17-4-1986 Quyết định số 69-QĐ/KL ngày 17-4-1986 và các văn bản hướng dẫn bổ sung khác.
Đối với xe chuyên dụng chuyển gỗ phải thực hiện theo Quyết định số 68-CT ngày 28-2-1984 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Về quản lý vật tư gỗ và lâm sản phải thực hiện đúng Chỉ thị số 199-CT ngày 12-6-1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Đối với gỗ tận dụng phải thực hiện đúng Chỉ thị số 37-CNR ngày 8-10-1983 của Bộ, đối với gỗ quý hiếm, gỗ nguyên liệu giấy phải thực hiện đúng Chỉ thị số 13-LN/KL và 16-LN/KL của Bộ.
Nghiêm cấm việc lợi dụng gỗ tận dụng, củi để chở gỗ chính phẩm, gỗ quý hiếm và gỗ nguyên liệu giấy.