Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Thông tư 18-NV năm 1963 thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp do Bộ Nội vụ ban hành

Số hiệu 18-NV
Ngày ban hành 03/08/1963
Ngày có hiệu lực 18/08/1963
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ
Người ký Ung Văn Khiêm
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 18-NV

Hà Nội, ngày 03 tháng 08 năm 1963 

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC THI HÀNH LUẬT TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP 

BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ

Kính gửi:

-Các ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp ban hành ngày 10-11-1962 có ý nghĩa quan trọng đối với việc kiện toàn chính quyền địa phương.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, dưới sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ trung ương, chính quyền địa phương có nhiệm vụ phát huy mọi khả năng của địa phương nhằm thực hiện những nhiệm vụ chung của Nhà nước, phát triển địa phương về mọi mặt và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Sự hoạt động của chính quyền địa phương quán triệt mọi mặt đời sống của nhân dân. Chính quyền địa phương cần tích cực phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và thực hiện chuyên chính mạnh mẽ đối với kẻ thù của nhân dân.

Để đáp ứng yêu cầu nói trên, luật xác định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và lề lối làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp đúng với tính chất, chức năng, vai trò của Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, Ủy ban hành chính là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương. Luật quy định việc phân cấp quản lý cho các cấp nhằm phát huy tác dụng của chính quyền địa phương trong việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, mở rộng sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân, động viên nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào việc quản lý Nhà nước, xây dựng kinh tế, văn hóa và trấn áp kẻ thù của nhân dân.

Trong việc thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, các Ủy ban hành chính cần chú ý những vấn đề sau đây:

I. VỀ NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp đã được luật quy định. Nhưng đó chỉ mới là những điểm chủ yếu về từng mặt công tác. Các Ủy ban hành chính cần có sự hướng dẫn cụ thể của các Bộ và các ngành ở trung ương.

Riêng đối với cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, việc phân cấp quản lý về kinh tế và văn hóa đã được Nghị định số 94-CP ngày 27-8-1962 của Hội đồng Chính phủ quy định. Các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần căn cứ vào những quy định trong luật và nghị định ấy và theo sự hướng dẫn của các Bộ, các ngành ở trung ương có liên quan để thi hành đúng nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình, đồng thời hướng dẫn cụ thể cho các cấp dưới thi hành đúng nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp.

Trong việc thực hiện nhiệm vụ; quyền hạn của các cấp, cần chú ý công tác kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước. Đối với các công tác này, các Ủy ban hành chính căn cứ vào sự hướng dẫn của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và của Bộ Tài chính để thi hành.

II. VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP

Hội đồng nhân dân cần phải hoạt động mạnh mẽ, thiết thực, đúng với tính chất, chức năng là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Ủy ban hành chính, với cương vị là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, có trách nhiệm tạo điều kiện cần thiết cho Hội đồng nhân dân hoạt động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.

1. Đối với hội nghị Hội đồng nhân dân.

Hội nghị Hội đồng nhân dân là hình thức hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân. Trong hội nghị, các đại biểu chính thức nói lên ý kiến nguyện vọng của nhân dân, tập thể bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát công tác của Ủy ban hành chính và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban hành chính.

Ủy ban hành chính có nhiệm vụ triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân cấp mình đúng kỳ hạn và chuẩn bị tốt hội nghị Hội đồng nhân dân.

Cần phải chuẩn bị đầy đủ nội dung của hội nghị như báo cáo công tác, đề án về kế hoạch Nhà nước và về những vấn đề quan trọng khác của địa phương, dự toán và quyết toán ngân sách (hoặc dự toán, quyết toán chi) của địa phương, Ủy ban hành chính cần phải tập thể thông qua những vấn đề đó trước khi đưa ra trình hội nghị.

Để cho các đại biểu có thời gian chuẩn bị về phần mình. Ủy ban hành chính cần báo ngày họp và chương trình của hội nghị cho các đại biểu biết trước ít nhất là 10 ngày (đối với cấp họp 3 tháng 1 kỳ), hoặc ít nhất là 15 ngày, (đối với cấp họp 6 tháng 1 kỳ). Nơi nào có điều kiện thì gửi báo cáo và các đề án công tác cho các đại biểu nghiên cứu trước.

Cần thông báo ngày họp, nơi họp và chương trình họp Hội đồng nhân dân cho nhân dân địa phương biết trước trong thời hạn như đã nói trên, để nhân dân phản ánh ý kiến nguyện vọng của mình với các đại biểu và theo dõi hội nghị.

Trong hội nghị Hội đồng nhân dân, cần phải làm đúng những thủ tục của hội nghị đã được quy định, tránh tình trạng luộm thuộm như đã xẩy ra ở một số nơi trước đây. Khi họp, Hội đồng nhân dân bầu ra đoàn chủ tịch và đoàn thư ký của hội nghị. Thành viên của đoàn chủ tịch và đoàn thư ký phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Hội nghị phải có biên bản ghi chép những sự diễn biến của hội nghị và những nghị quyết về những vấn đề được biểu quyết. Các nghị quyết của hội nghị chỉ có giá trị khi được quá nửa tổng số đại biểu của Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành (chứ không phải chỉ là quá nửa số đại biểu có mặt trong buổi họp). Hội nghị biểu quyết bằng cách giơ tay, hoặc bỏ phiếu kín.

Cần phải triệt để phát huy dân chủ trong hội nghị, làm cho các đại biểu hăng hái tham gia thảo luận thực sự.

Sau hội nghị, Ủy ban hành chính gửi biên bản và các nghị quyết của hội nghị lên Ủy ban hành chính cấp trên trực tiếp trong thời hạn 15 ngày, để cấp trên có thể xem xét kịp thời. Đối với các cấp, khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, những văn kiện đó phải gửi lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phủ Thủ tướng và Bộ Nội vụ mỗi nơi một bản. Các đại biểu đi báo cáo nghị quyết của Hội đồng nhân dân trước cử tri và động viên cử tri thực hiện nghị quyết. Ủy ban hành chính có nhiệm vụ chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp, thuộc quyền chấp hành nghị quyết.

2. Đối với các ban của Hội đồng nhân dân.

Các ban là một hình thức hoạt động mới của Hội đồng nhân dân. Các ban góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh sự hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân. Ban thu hút cả những người không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân, nhưng có nhiệt tình và có nhiều kinh nghiệm về sản xuất, về công tác, về đời sống.

Nhiệm vụ của các ban của Hội đồng nhân dân là thường xuyên liên hệ với nhân dân để tìm hiểu ý kiến nguyện vọng của nhân dân và góp ý kiến với Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính trong việc xây dựng và thực hiện những chủ trương công tác của địa phương.

Theo luật quy định, các ban của Hội đồng nhân dân bao gồm có đại biểu Hội đồng nhân dân và có thể có người ngoài Hội đồng nhân dân. Số lượng thành viên của mỗi ban không nên quá nhiều mà chỉ nên có khoảng 10 người, trong đó quá nửa là đại biểu Hội đồng nhân dân. Tất cả thành viên của ban đều do Hội đồng nhân dân cử ra. Mỗi ban có một trưởng ban và một phó ban do Hội đồng nhân dân chỉ định và phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.

Các ban phải hoạt động thiết thực. Do đó, không phải tất cả các Hội đồng nhân dân đều phải thành lập các ban như nhau. Việc thành lập các ban phải tùy theo nhu cầu công tác của từng địa phương và điều kiện hoạt động của các thành viên của các ban ở nơi đó. Nếu điều kiện hoạt động còn có khó khăn thì chưa nên thành lập ban ngay. Trong tình hình hiện nay, các ban nên thành lập trước hết ở các thành phố, thị xã, khu phố là những nơi mà các thành viên của ban ở gần nhau và có điều kiện thuận tiện để hoạt động. Ở cấp xã, các ban chuyên môn thuộc Ủy ban hành chính xã đã thu hút đại biểu Hội đồng nhân dân xã và những người tích cực trong xã tham gia công việc quản lý Nhà nước. Do đó, không cần thành lập các ban của Hội đồng nhân dân ở xã nữa, mà chỉ nên đưa thêm các đại biểu Hội đồng nhân dân vào các ban chuyên môn đó.

[...]