Thông tư 1671-HCTP năm 1956 chấn chỉnh việc thực hiện chế Hội thẩm nhân dân do Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 1671-HCTP
Ngày ban hành 11/09/1956
Ngày có hiệu lực 26/09/1956
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ,Bộ Tư pháp
Người ký Phan Kế Toại,Vũ Đình Hoè
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Thủ tục Tố tụng

BỘ NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 1671-HCTP

Hà Nội, ngày 11 tháng 09 năm 1956 

 

THÔNG TƯ

CHẤN CHỈNH VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM NHÂN DÂN

BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ - BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP

Kính gửi:

- Các Ủy ban hành chính các liên khu, thành phố và tỉnh
- Các Tòa án nhân dân các liên khu, thành phố và tỉnh

 

Trong việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân ở khu và tỉnh, Liên Bộ có những nhận xét sau đây:

1. Nhiều Ủy ban hành chính và Tòa án chưa chú ý đúng mức đến việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân. Do đó, những hội thẩm nhân dân thường trực đã điều động đi công tác khác hoặc những hội thẩm nhân dân đã rơi rụng qua phát động giảm tô và cải cách ruộng đất,các Ủy ban và Tòa án đều không cử người thay thế. Hiện nay, hầu hết các Tòa án tỉnh và khu không có danh sách hội thẩm nhân dân. Mỗi khi mở phiên tòa, thường phải mời một số cán bộ chính quyền và đoàn thể làm hội thẩm nhân dân, việc mời thường gặp nhiều khó khăn, có khi phải hoãn phiên tòa vì hội thẩm nhân dân bận không đến được.

2. Việc bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân về đường lối chính sách và lề lối làm việc cũng ít được các Tòa án chú ý. Một số hội thẩm nhân dân thường trực trở thành cán bộ chuyên môn ít liên hệ với quần chúng.

3. Số hội thẩm nhân dân khu và tỉnh còn quá ít mà số việc đưa ra xét xử lại nhiều, hội thẩm nhân dân lại bận luôn nên không đảm bảo được chu đáo nhiệm vụ của mình.

Do những khuyết điểm nói trên, việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân còn hình thức, tác dụng của việc nhân dân tham gia xét xử còn bị hạn chế nhiều.

4. Tuy nhiên chúng ta cũng đã rút được một kinh nghiệm tốt là đã tùy tính chất vụ án mà chọn một số cán bộ hoặc đại biểu các tầng lớp nhân dân (như trong vụ án có liên quan đến chính sách tôn giáo hoặc chính sách dân tộc thì mời đại biểu tôn giáo hoặc đại biểu dân tộc; hoặc bị can thuộc tầng lớp nào thì mời đại biểu của tầng lớp ấy), bồi dưỡng cho họ làm hội thẩm nhân dân. Cách cử hội thẩm nhân dân này bao gồm các thành phần rộng rãi đã mang lại ảnh hưởng chính trị tốt về mặt đoàn kết nhân dân, và tăng cuờng sự liên hệ giữa chính quyền và nhân dân.

Hiện nay, nhiệm vụ trung tâm của ngành Tư pháp là phải đẩy mạnh công tác trấn áp bọn phá hoại và bọn gián điệp để bảo vệ  việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, bảo vệ công cuộc củng cố miền Bắc. Trong việc trấn áp chủ yếu là phải dựa vào lực lượng đấu tranh của quần chúng, do đó cần phải khai thác đến cao độ tác dụng của quần chúng tham gia vào công việc xét xử, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của quần chúng. Trong mọi việc của tòa án, xét xử về chính trị, về hình hoặc về hộ, sự tham gia thiết thực của các hội thẩm nhân dân sẽ làm cho Tòa án của chúng ta biểu hiện được rõ rệt tính chất nhân dân của nó.

Căn cứ vào kinh nghiệm và ý kiến của nhiều địa phương, Liên Bộ đề ra chủ trương sau đây để chấn chỉnh chế định hội thẩm nhân dân khu và tỉnh (trừ Khu tự trị Thái – Mèo có quy định riêng. Còn về hội thẩm nhân dân huyện, Liên Bộ hiện đang nghiên cứu).

A. HƯỚNG CHUNG:

Mở rộng danh sách hội thẩm nhân dân nhằm phát triển việc nhân dân tham gia tư pháp, đồng thời đảm bảo cho Tòa án được dễ dàng trong việc mời hội thẩm nhân dân tham gia xét xử nhưng cũng chú trọng chất lượng của hội thẩm nhân dân để đảm bảo cho việc xét xử được tốt, nâng cao được tác dụng của hội thẩm nhân dân trong Tòa án.

B. THÀNH PHẦN HỘI THẨM NHÂN DÂN:

Mỗi Tòa án nhân dân cấp khu và mỗi Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải có một danh sách hội thẩm nhân dân gồm các thành phần rộng rãi như sau:

- Các đại biểu đoàn thể lấy trong các Ban Chấp hành các đoàn thể ở trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (chủ yếu là nông hội, công đoàn: chú trọng phụ nữ).

- Các đại biểu dân tộc thiểu số, các đại biểu tôn giáo ở những nơi có nhiều đồng bào thiểu số, có nhiều giáo dân. Các đại biểu thuộc các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, nhân sĩ, trí thức, và các chiến sĩ thi đua.

Về thành phần hội thẩm nhân dân đại biểu các đoàn thể thì:

- Hội thẩm nhân dân cấp khu có thể lấy xuống đến các Ban Chấp hành các đoàn thể cấp tỉnh:

- Hội thẩm nhân dân cấp tỉnh có thể lấy xuống đến các Ban Chấp hành các đoàn thể cấp huyện. Những đặc khu hoặc thành phố không có huyện, quận thì có thể lấy xuống đến các Ban Chấp hành đoàn thể xã hoặc khu phố.

C. CÁCH CHỌN VÀ SỐ LƯỢNG HỘI THẨM NHÂN DÂN:

1. Tỉnh: số hội thẩm nhân dân tỉnh lấy trong các Ban Chấp hành các đoàn thể tỉnh có thể lấy từ 3 đến 6, và lấy trong các Ban Chấp hành các đoàn thể huyện có thể từ 2 đến 4 ở mỗi huyện.

2. Khu: số hội thẩm nhân dân khu lấy trong các Ban Chấp hành các đoàn thể khu có thể từ 4 đến 8, và lấy trong các Ban Chấp hành các đoàn thể tỉnh có thể từ 3 đến 6 ở mỗi tỉnh.

Những người đã được cử làm hội thẩm nhân dân tỉnh cũng có thể được cử làm hội thẩm nhân dân khu.

Những hội thẩm nhân dân nào đã ngồi xử sơ thẩm một vụ án không được ngồi xử lại vụ án đó nếu có chống án.

3. Thành phố: số hội thẩm nhân dân thành phố có thể từ 40 đến 60.

[...]