Thông tư 127-TT/LB năm 1959 về việc nộp vào kho bạc các khoản tiền lợi nhuận, tiền khấu hao cơ bản cũng như các khoản tiền khác mà các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh phải nộp cho Dự toán Nhà nước do Bộ Thương nghiệp- Bộ Tài chính- Ngân hàng Quốc gia ban hành

Số hiệu 127-TT/LB
Ngày ban hành 31/12/1958
Ngày có hiệu lực 01/01/1959
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính,Bộ Thương nghiệp,Ngân hàng quốc gia
Người ký Nguyễn Thanh Sơn,Hoàng Quốc Thịnh,Tạ Hoàng Cơ
Lĩnh vực Tài chính nhà nước

BỘ TÀI CHÍNH-BỘ THƯƠNG NGHIỆP-NGÂN HÀNG QUỐC GIA
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 127-TT/LB

Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1959 

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC NỘP VÀO KHO BẠC CÁC KHOẢN TIỀN LỢI NHUẬN, TIỀN KHẤU HAO CƠ BẢN CŨNG NHƯ CÁC KHOẢN TIỀN KHÁC MÀ CÁC XÍ NGHIỆP THƯƠNG NGHIỆP QUỐC DOANH PHẢI NỘP CHO DỰ TOÁN NHÀ NƯỚC 

Căn cứ theo những quy định chung “Thể lệ về nộp tiền lợi nhuận và tiền khấu hao cơ bản của các xí nghiệp quốc doanh” của Thủ tướng phủ số 132-TTg ngày 4-4-1957, thì việc nộp kho bạc tiền lợi nhuận, tiền khấu hao cơ bản và các khoản tiền khác mà các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh phải nộp cho Dự toán Nhà nước đều do Bộ Thương nghiệp và các Tổng Công ty chuyên nghiệp nộp hàng tháng theo kế hoạch mỗi tháng 2 lần; hàng quý, hàng năm thì thanh toán theo kết quả thực tế.

Trong hơn một năm nay thực hiện biện pháp nộp theo kế hoạch, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn vì các xí nghiệp cơ sở thương nghiệp quốc doanh rất nhiều và phân tán trong toàn quốc, quy mô mỗi xí nghiệp cơ sở lại không to lắm và tình hình hoạt động kinh doanh của ngành Thương nghiệp quốc doanh thay đổi tương đối nhanh, khiến cho việc lập kế hoạch và tổng hợp kế hoạch từ Công ty tỉnh lên đến các Tổng Công ty và Bộ Thương nghiệp thường không được chính xác và không được kịp thời. Vì thế cho nên thực hiện biện pháp nộp theo kế hoạch ở cấp Tổng công ty đã đưa đến kết quả là có xí nghiệp phải nộp kho bạc nhiều hơn số thực tế đáng lẽ phải nộp, làm cho xí nghiệp thiếu vốn lưu động không có đủ vốn để thực hiện kế hoạch lưu thông hàng hóa; hoặc ngược lại, có xí nghiệp nộp Kho bạc ít hơn số thực tế đáng lẽ phải nộp, như vậy cũng đã làm ứ đọng vốn Nhà nước và trở ngại cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Có khi vì trong kế hoạch không dự tính trước được tình hình nên đặt kế hoạch có lãi, nhưng thực tế lại lỗ: trường hợp này thì không những không được bù lỗ kịp thời, mà lại còn phải nộp một phần vốn lưu động vào Kho bạc, ảnh hưởng không tốt đến việc kinh doanh của xí nghiệp thương nghiệp. Hiện nay việc ổn định vật giá và cải tạo tư thương là nhiệm vụ rất nặng nề của ngành Thương nghiệp quốc doanh; cần phải có những biện pháp hợp lý và thực sự cầu thị để giải quyết tình hình lãi cũng như lỗ của xí nghiệp thương nghiệp các cấp.

Các xí nghiệp thương nghiệp, các cấp đang bắt đầu thực hành hạch toán kinh tế, các Công ty tỉnh và một số đơn vị trực thuộc các Tổng công ty thương nghiệp đã tính được lỗ lãi của mình

Trước tình hình đó, sau khi được Thủ tướng phủ thỏa thuận, Liên Bộ quyết định sửa đổi biện pháp nộp Kho bạc của các xí nghiệp nội thương: từ biện pháp nộp theo kế hoạch này đổi sang biện pháp nộp theo thực tế. Việc sửa đổi này nhằm làm cho các xí nghiệp quốc doanh thương nghiệp có thêm điều kiện tiến hành kinh doanh thuận lợi, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ nặng nề của ngành thương nghiệp quốc doanh là ổn định vật giá và cải tạo tư thương, đồng thời thực hiện được hạch toán kinh tế, cố gắng mở rộng lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn, tiết kiệm phí tổn lưu thông hàng hóa và tăng cường tích lũy vốn cho Nhà nước.

NGUYÊN TẮC CHUNG

Nguyên tắc chung của biện pháp này là: có lãi mới nộp, không có lãi thì không nộp, có bao nhiêu lãi nộp bấy nhiêu, không nộp quá mà cũng không bớt lại; nếu bị lỗ thì được bù lỗ sau khi đã thông qua trình tự xét duyệt thích đáng.

Căn cứ theo những nguyên tắc trên, dưới đây quy định cụ thể thể lệ nộp vào Kho bạc các khoản tiền lợi nhuận, tiền khấu hao cơ bản, cũng như các khoản tiền khác mà xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh phải nộp cho Dự toán Nhà nước.

I. ĐƠN VỊ NỘP KHO BẠC

1. Đối với các Tổng Công ty ở trung ương, lấy các trạm bán buôn cấp I và các xưởng gia công chế biến trực thuộc đã thực hiện chế độ hạch toán kinh tế làm đơn vị nộp.

Còn các trạm bán buôn cấp I, các xưởng trực thuộc, các bộ phận kinh doanh khác chưa thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, thì do Tổng công ty đảm nhiệm việc tổng hợp và nộp Kho bạc.

2. Đối với các Công ty tỉnh, thành phố và Khu Tự trị lấy các Công ty chuyên nghiệp, các Cửa hàng trực thuộc và các Xưởng gia công chế biến trực thuộc đã thực hiện chế độ hạch toán kinh tế làm đơn vị nộp.

3. Đối với những cửa hàng và Xưởng gia công chế biến thuộc Trạm bán buôn cấp I hoặc thuộc Công ty tỉnh, thành phố, dù có thực hiện chế độ hạch toán kinh tế hay không, thì những khoản lợi nhuận, tiền khấu hao cơ bản cũng như những khoản tiền khác mà các cửa hàng và các xưởng đó phải nộp cho Dự toán Nhà nước đều do trạm bán buôn cấp I, hoặc Công ty tỉnh, thành phố và khu tự trị đảm nhiệm việc tổng hợp và nộp kho bạc.

Nếu đặc biệt có những cửa hàng hoặc xưởng gia công chế biến tương đối lớn đã thực hiện chế độ hạch toán kinh tế rồi thì trạm bán buôn cấp I hoặc Công ty tỉnh, thành phố, khu tự trị, có thể đề nghị với Ty, Sở Thương nghiệp tỉnh, thành phố, khu tự trị xét, nếu được Ty, Sở Thương nghiệp đồng ý, sau khi có ý kiến thỏa thuận của Ty, Sở Tài chính, thì những cửa hàng hoặc xưởng đó cũng được coi là đơn vị nộp.

4. Tất cả các đơn vị nộp kể trên dù nộp ở Kho bạc địa phương nào, đều phải ghi là nộp cho Dự toán trung ương.

5. Các Tổng Công ty và các Ty, Sở Thương nghiệp dù các đơn vị sở thuộc của mình có thực hiện chế độ hạch toán kinh tế hay không và có được xác nhận là đơn vị nộp Kho bạc hay không cũng vẫn phải căn cứ theo những quy định của Nhà nước mà chịu trách nhiệm lập và tổng hợp các loại bảng kế hoạch (kể cả các bảng kế hoạch kinh tế quốc dân và kế hoạch thu chi tài vụ) và báo biểu kế toán, rồi nộp đúng kỳ hạn cho Bộ Thương nghiệp và các cơ quan có liên quan (Tổng Công ty gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Quốc gia Việt nam Trung ương; Ty, Sở Thương nghiệp gửi Ủy ban hành chính, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tỉnh, thành phố và khu tự trị, Ty, Sở Tài chính và Chính nhánh Ngân hàng Quốc gia). Về phần kiến thiết cơ bản, Tổng Công ty và Sở, Ty Thương nghiệp gửi thêm kế hoạch và báo biểu cho Ngân hàng Kiến thiết. Đồng thời Bộ Tài chính có thể quy định, sau khi thỏa thuận với Bộ Thương nghiệp, một số Ty, Sở thương nghiệp và một số xí nghiệp trọng điểm gửi kế hoạch và báo biểu cho Bộ Tài chính. Ngay từ nay, các trạm bán buôn cấp I và các Sở Thương nghiệp Hà nội, Hải phòng, Nam định cũng gửi cho Bộ Tài chính.

II. CĂN CỨ ĐỂ NỘP VÀ THỜI GIAN NỘP

1. Lợi nhuận, tiền khấu hao cơ bản và các khoản phải nộp khác là bao nhiêu phải căn cứ vào số thực tế đã thực hiện (đã trừ phần trích lập quỹ tiền thưởng xí nghiệp theo như quy định của Nhà nước) ghi trong báo cáo quyết toán của đơn vị nộp, không nộp quá mà cũng không nộp ít hơn.

2. Các đơn vị nộp phải nộp lợi nhuận mỗi tháng một lần và nộp tiền khấu hao cơ bản mỗi quý một lần.

Đối với những đơn vị đã làm được báo cáo quyết toán hàng tháng thì căn cứ vào con số trong báo cáo quyết toán hàng tháng để nộp; nếu vì lý do gì đặc biệt mà không làm kịp báo cáo quyết toán hàng tháng đúng kỳ hạn, thì khi đến kỳ hạn nộp, đơn vị nộp phải nộp theo con số thực tế đã thực hiện của tháng trước; khi làm xong báo cáo quyết toán sẽ điều chỉnh nếu nộp chưa đủ thì phải nộp thêm, nếu đã nộp thừa thì được trả lại.

Đối với những đơn vị chưa làm được báo cáo quyết toán hàng tháng, thì hai tháng đầu, mỗi tháng phải nộp 1/3 số thực tế đã thực hiện của quý trước; đến tháng thứ 3, sau khi lập xong báo cáo quyết toán hàng quý, sẽ căn cứ vào số thực tế đã thực hiện trong quý mà điều chỉnh lại, nếu nộp chưa đủ thì phải nộp thêm, nếu đã nộp thừa thì được trả lại. Trường hợp đặc biệt nếu nộp theo số thực tế đã thực hiện của quý trước sẽ chênh lệch quá nhiều so với thực tế của quý này, thì đơn vị nộp có thể đề nghị với Ty, Sở Thương nghiệp, tỉnh, thành phố, Khu tự trị và Ty, Sở Tài chính tỉnh, thành phố, Khu tự trị xét để ước tính một con số phải nộp trong tháng cho tương đối sát; sau khi có báo cáo quyết toán hàng quý sẽ điều chỉnh, nếu nộp chưa đủ thì phải nộp thêm, nếu đã nộp thừa thì được trả lại.

Trường hợp vì lý do gì đặc biệt mà báo cáo quyết toán hàng quý làm chậm, và đã đến kỳ hạn phải nộp thì tháng thứ 3 của quý phải nộp đúng như con số phải nộp của tháng thứ 2, đợt khi làm xong báo cáo quyết toán hàng quý sẽ điều chỉnh một thể.

3. Về lợi nhuận hàng tháng, thì thời hạn nộp quy định như sau:

Các trạm bán buôn cấp I, các xưởng gia công chế biến trực thuộc Tổng Công ty và các Công ty thành phố phải nộp trước ngày 5 tháng sau.

Các Công ty chuyên nghiệp tổng hợp tỉnh phải nộp trước ngày 10 tháng sau.

Riêng đối với các Công ty tỉnh ở miền núi (do Bộ Thương nghiệp quy định) vì cửa hàng ở xa, nên thời hạn phải nộp được kéo dài đến trước ngày 15 tháng sau.

Các cửa hàng và xưởng gia công thuộc các Trạm bán buôn cấp I và các Công ty tỉnh nếu được coi là đơn vị nộp thì phải nộp trước ngày 5 tháng sau.

[...]