UỶ
BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số:
1153-KHKT/TT
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 11 năm 1974
|
THÔNG
TƯ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ QUẢN LÝ ĐO LƯỜNG
BAN
HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 216-CP NGÀY 25-9-1974 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Ngày 25 tháng 9 năm 1974 Hội đồng
Chính phủ đã ra nghị định số 216-CP ban hành Điều lệ quản lý đo lường. Căn cứ
vào điều 2 của nghị định, Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước ra thông tư này
nhằm giải thích thêm một số điểm và hướng dẫn các Bộ, các ngành và các địa
phương trong việc thi hành bản Điều lệ đó.
I. Ý NGHĨA, MỤC
ĐÍCH CỦA VIỆC BAN HÀNH ĐIỀU LỆ
Đo lường là cơ sở quan trọng của
quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật nhưng để phát huy đầy đủ tác dụng của đo lường
thì cần phải quản lý chặt chẽ các hoạt động đo lường mọi lĩnh vực.
Từ năm 1945 đến gần đây, Nhà nước
đã ban hành một số văn bản pháp chế mà nội dung có liên quan ít nhiều đến công
tác quản lý đo lường. Tuy nhiên các văn bản đó chưa đề cập đến một cách toàn diện
nhiều mặt quan trọng của quản lý đo lường như kiểm định, giám sát, tổ chức hệ
thống cơ quan quản lý đo lường và trách nhiệm các ngành các cấp…
Nay, khi Đảng và Chính phủ chủ
trương tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế và kỹ thuật, thì việc đưa công
tác quản lý đo lường vào nề nếp qua việc ban hành một số điều lệ gốc về quản lý
đo lường là rất cần thiết. Hơn nữa quản lý đo lường tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy
đo lường phát triển, đáp ứng kịp thời những yêu cầu ngày càng cao của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
II. ĐỐI TƯỢNG
THI HÀNH ĐIỀU LỆ
Điều lệ này dùng để quản lý tất
cả các hoạt động đo lường trong nước. Mọi người từ thủ trưởng đến cán bộ, công
nhân viên, trong mọi hoạt động đo lường, ở các ngành, các cấp, đều có trách nhiệm,
ở cương vị của mình, thi hành điều lệ.
Đó là: - những người dùng thiết
bị dụng cụ đo để đo trong sản xuất, giao nhận, buôn bán…
- những người sản xuất, sửa chữa,
nhập, kinh doanh thiết bị, dụng cụ đo.
- những người kiểm tra, kiểm định
thiết bị, dụng cụ đo;
- những người quản lý các cơ
quan, các tổ chức có những hoạt động trên.
III. NHỮNG
NGUYÊN TẮC
Khi nghiên cứu và thi hành điều
lệ, cần quán triệt hai nguyên tắc chính:
1. Tăng cường sự quản lý của Nhà
nước: Nhà nước ta quản lý chặt chẽ mọi hoạt động kinh tế. Để quản lý thống nhất
đo lường trong cả nước và thúc đẩy đo lường tiến lên nhịp nhàng và cân đối với
các lĩnh vực khác, Nhà nước phải ban hành các pháp chế về đo lường, danh mục
các thiết bị và dụng cụ đo phải qua kiểm định Nhà nước và quy trình kiểm định,
các cơ quan quản lý đo lường Nhà nước phải thanh tra, giám sát, kiểm định các
chuẩn và các thiết bị chuẩn, duyệt thiết kế và mẫu các thiết bị, dụng cụ đo…
2. Đề cao tinh thần trách nhiệm
của thủ trưởng; thủ trưởng các ngành, các cấp phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về
tình trạng đo lường trong phạm vi mình phụ trách. Muốn quản lý tốt, sản xuất tốt,
thủ trưởng phải chăm lo đến tình trạng đo lường trong đơn vị mình, phát huy
tinh thần tự lực cánh sinh, tận dụng và phát huy khả nặng của đơn vị, giảm nhẹ
phần giúp đỡ của Nhà nước và của cấp trên.
Cần vận dụng đúng đắn và sáng tạo
hai nguyên tắc này, tranh thủ tối đa sự chỉ đạo và giúp đỡ của các cơ quan quản
lý đo lường Nhà nước, đồng thời đề cao tinh thần trách nhiệm và tự lực cánh
sinh cao nhất của thủ trưởng.
IV. HỆ THỐNG CƠ
QUAN QUẢN LÝ ĐO LƯỜNG
Hệ thống cơ quan quản lý đo lường
gồm có:
- Các cơ quan quản lý đo lường
Nhà nước từ trung ương đến các địa phương;
- Các cơ quan quản lý đo lường
thuộc các ngành, các cơ sở.
Trực thuộc Cục đo lường Nhà nước
trung ương có những cơ sở đặt ở một số địa bàn quan trọng, phụ trách quản lý đo
lường trong một số lĩnh vực đặc biệt, thường là phức tạp, hoặc trong một địa
bàn rộng lớn, mà phòng đo lường địa phương chưa thể đảm nhiệm được. Tuỳ quy mô
mà gọi cơ sở đó là trạm, phòng hay chi cục…
Cơ sở thuộc các ngành thì phân
ra hai loại: loại 1, mà thiết bị, dụng cụ phải qua kiểm định Nhà nước, không cần
tổ chức một bộ phận quản lý đo lường có chuẩn để kiểm định, nhưng ít nhất có 1,
2 cán bộ để hướng dẫn đôn đốc, kiểm tra thực hiện điều lệ và đăng ký xin kiểm định.
Loại 2, mà thiết bị, dụng cụ đo
do cơ sở tự kiểm định hoặc nhờ một số cơ sở khác hay một cơ quan đo lường Nhà
nước kiểm định nhưng không có tính chất kiểm định Nhà nước, cần tổ chức bộ phận
quản lý đo lường theo điều lệ này và điều lệ quản lý đo lường trong các xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh.
Sau khi xem xét điều kiện và khả
năng vật chất và kỹ thuật của một số xí nghiệp lớn hoặc ngành đặc biệt và sau
khi bàn bạc thoả thuận, cục đo lường Nhà nước trung ương công nhận và uỷ quyền
kiểm định Nhà nước cho những tổ chức đó mà điều lệ gọi là tổ chức quản lý đo lường
đặc biệt (tiết 6 điều 31).
Nói chung các tổ chức quản lý đo
lường ở cấp bộ, ngành không phụ trách kiểm định và không có chuẩn để kiểm
định. Trường hợp đặc biệt nếu cần trang bị chuẩn và phụ trách kiểm định thì phải
xem xét tính toán kỹ lợi hại các mặt và phải được sự thoả thuận của Uỷ ban Khoa
học và kỹ thuật Nhà nước.
V. KIỂM ĐỊNH
THIẾT BỊ, DỤNG CỤ ĐO
Đây là một biện pháp kỹ thuật và
hành chính quan trọng nhất để quản lý thiết bị, dụng cụ đo, thông qua việc kiểm
tra tính năng kỹ thuật và công nhận tính hợp pháp. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà
quy định thiết bị, dụng cụ đo có phải qua kiểm định hay không và ở cấp nào. Cơ
quan quản lý đo lường Nhà nước kiểm định những thiết bị, dụng cụ đo trong danh
mục Nhà nước kiểm định. Các ngành, cơ sở kiểm định những thiết bị, dụng cụ đo
thuộc diện tự quản.
Những thiết bị, dụng cụ đo dùng
trong giảng dạy, triễn lãm hoặc trong gia đình…, không dùng trong trao đổi, mua
bán thì không phải qua kiểm định.
- Nói chung mỗi thiết bị, dụng cụ
đo đều phải qua hai loại kiểm định:
- Kiểm định ban đầu, thường là
kiểm định Nhà nước, trừ những thiết bị, dụng cụ đo được sửa chữa ở xí nghiệp sản
xuất;
- Kiểm định định kỳ, do cơ quan
quản lý đo lường Nhà nước hay ngành, cơ sở chủ quản kiểm định là tuỳ theo mục
đích sử dụng của thiết bị, dụng cụ đo.
VI. THANH
TRA, GIÁM SÁT, TRỌNG TÀI
Thanh tra về đo lường là để nắm
một cách tổng hợp tình hình đo lường và quản lý đo lường, việc chấp hành các chế
độ thể lệ về đo lường và quản lý đo lường ở cơ sở, việc thực hiện các trách nhiệm
về đo lường và quản lý đo lường của các cơ quan chức năng và của từng cá nhân
phụ trách.
Nội dung giám sát về đo lường
bao gồm một số mặt cụ thể của nội dung thanh tra, và thường có tiến hành kiểm định
bất thường thiết bị, dụng cụ đo và kiểm tra bất thường kết quả đo.
Chỉ có thủ trưởng cơ quan quản
lý đo lường Nhà nước mới có trách nhiệm thanh tra về đo lường và uỷ nhiệm cho
cán bộ của mình tiến hành công việc giám sát. Cán bộ được uỷ quyền phải là người
trung thực chí công vô tư, có đủ trình độ về chuyên môn nghiệp vụ. Trong giấy uỷ
nhiệm cần ghi rõ những nội dung cần giám sát.
Trong công tác trọng tài,
cơ quan quản lý đo lường Nhà nước chỉ kết luận về mặt đo lường mà không đứng ra
xử lý các vụ tranh chấp, nhưng kết luận của cơ quan quản lý đo lường Nhà nước
là cao nhất về mặt đo lường.
VII. SẢN XUẤT
THIẾT BỊ, DỤNG CỤ ĐO
Cục đo lường Nhà nước trung ương
xét duyệt thiết kế và mẫu của thiết bị, dụng cụ đo nhưng không quyết định cho
phép sản xuất. Căn cứ vào biên bản xét duyệt thiết kế và mẫu, Hội đồng xét duỵêt
sản phẩm của Nhà nước, thành lập theo quyết định số 60-CP ngày 21-4-1971 của Hội
đồng Chính phủ, sẽ quyết định cho sản xuất.
Ngoài bản thiết kế, khi cục
đo lường Nhà nước trung ương thấy cần thiết, còn phải xét duỵêt mẫu của thiết bị,
dụng cụ đo vì có những trường hợp chỉ có thể xem xét và thử nghiệm tính năng kỹ
thuật trên mẫu.
Sự bãi bỏ hiệu lực của việc xét
duyệt mẫu và thiết kế của thiết bị, dụng cụ đo cũng là căn cứ kỹ thuật để Nhà
nước xét và quyết định ngừng sản xuất loại thiết bị, dụng cụ đó.
VIII. NHỮNG
CÔNG VIỆC CẦN LÀM TRƯỚC MẮT
1. Thông qua các cơ quan thông
tin, tuyên truyền, báo chí, phát thanh ở trung ương và địa phương, kịp thời phổ
biến điều lệ đến tất cả các cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan và tổ chức
của Nhà nước và của nhân dân. Tổ chức những buổi nói chuyện, giải thích điều lệ,
những triển lãm nhỏ, trưng bày tranh ảnh, áp phích ở những nơi công cộng
2. Các Bộ, Tổng cục và cơ sở cần
tổ chức điều tra về tình hình đo lường và quản lý đo lường, nắm tình hình
trang bị, cán bộ và công nhân kỹ thuật đo lường và xem xét yêu cầu và khả năng.
Đồng thời nên tăng cường hoặc tổ chức mới bộ phận chuyên trách quản lý đo lường
trong phạm vi Bộ, Tổng cục hoặc cơ sở. Cần sớm chỉ định cán bộ phụ trách và nên
chọn người có kiến thức khá về đo lường và quản lý đo lường, ở những cơ sở lớn
nên chọn cán bộ có trình độ đại học và có kinh nghiệm công tác. Bộ, Tổng cục
nên chọn một vài xí nghiệp làm thí điểm về tổ chức quản lý đo lường.
Sau đó, nên lập kế hoạch dài
(1976-1980) và kế hoạch 1975 về đo lường và quản lý đo lường bao gồm nhiệm vụ
và nội dung, tổ chức, cơ cấu, biên chế cán bộ, công nhân, trang bị trụ sở, tài
chính, yêu cầu và tổ chức sản xuất, nhập, sửa chữa, kiểm định thiết bị, dụng cụ
đo, đào tạo cán bộ…
Căn cứ vào điều lệ của Nhà nước,
Bộ, Tổng cục và cơ sở xây dựng và ban hành những quy định cụ thể trong ngành và
cơ sở.
3. Ở những địa phương đã có
phòng đo lường thì ông chủ tịch Uỷ ban hành chính cần soát xét lại tổ chức và
hoạt động, có kế hoạch chấn chỉnh, tăng cường, củng cố cơ quan đó và soát xét lại
những văn bản pháp chế của địa phương, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều lệ
Nhà nước.
Ở địa phương chưa có phòng đo lường
thì cần chuẩn bị và cho thành lập.
Trong những công việc này cần
tranh thủ sự giúp đỡ của Cục đo lường Nhà nước trung ương.
4. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Uỷ
ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Bộ Ngoại thương, Bộ Vật tư cần phối hợp
chặt chẽ và có kế hoạch nhập kịp thời những thiết bị, dụng cụ đo và linh
kiện, phụ tùng thay thế. Cần rút kinh nghiệm về việc lên đơn hàng, nhập, bảo quản,
phân phối…từ đó đề ra một nề nếp chặt chẽ và hợp lý cho những năm sau.
5. Các Bộ, Tổng cục, địa phương
và cơ sở cần trước hết tổ chức việc sửa chữa trong nội bộ mình, đồng thời hợp
tác giúp đỡ lẫn nhau. Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Uỷ ban
kế hoạch Nhà nước và một số Bộ, Tổng cục nghiên cứu việc tổ chức phân công sửa
chữa một số loại thiết bị, dụng cụ đo đặc biệt (điện, điện tử, quang học…).
6. Cần xúc tiến xây dựng và lắp
đặt những xí nghiệp sản xuất thiết bị, dụng cụ đo đã ký kết với nước ngoài.
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cần có
quy hoạch và tạo điều kiện cho một số xí nghiệp, hợp tác xã sản xuất một số thiết
bị, dụng cụ đo thông dụng.
7. Song song với việc Uỷ ban
khoa học và kỹ thuật Nhà nước tăng cường mở những lớp ngắn hạn để bồi dưỡng cán
bộ đo lường, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp, Bộ Lao động cần bàn với Uỷ
ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước để đưa chương trình giảng dậy về đo lường và
quản lý đo lường vào các khoa của các trường, đồng thời nguyên cứu việc tổ chức
đào tạo tập trung cán bộ đo lường.
Các Bộ, Tổng cục, địa phương
cũng cần tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ và công nhân kỹ thuật đo lường
trong ngành và địa phương.
Thông tư này chỉ giải thích một
số vấn đề lớn về nguyên tắc. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, các
ngành, các cấp cần liên hệ với Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước, để bàn bạc
và cùng tìm cách giải quyết kịp thời những khó khăn mắc mứu.
Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà
nước sẽ tiếp tục ra một số thông tư khác về những vấn đề cụ thể và chi tiết.
|
K.T
CHỦ NHIỆM UỶ BAN
KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC
PHÓ CHỦ NHIỆM
Lê Khắc
|