Thông tư 09-LB/YT/GD-1973 hướng dẫn công tác y tế trường học do Bộ Y tế - Bộ Giáo dục ban hành

Số hiệu 09-LB/YT/GD
Ngày ban hành 07/06/1973
Ngày có hiệu lực 22/06/1973
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Giáo dục,Bộ Y tế
Người ký Hồ Trúc,Hoàng Đình Cầu
Lĩnh vực Thể thao - Y tế

BỘ GIÁO DỤC
BỘ Y TẾ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 09-LB/YT/GD

Hà Nội, ngày 07 tháng 06 năm 1973 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN CÔNG TÁC Y TẾ TRƯỜNG HỌC

Hòa bình đã được lập lại, sự nghiệp giáo dục phát triển ngày càng lớn, học sinh đi học ngày càng đông. Trong thời kỳ địch đánh phá, các trường học phải phân tán, sơ tán, sức khỏe học sinh, giáo viên bị giảm sút, các nề nếp về vệ sinh nhiều nơi không được giữ tốt. Trường lớp, bàn ghế thiếu hụt, hư hỏng nhiều; năm nay hầu hết các địa phương, học sinh phải học tập suốt cả mùa hè.

Thi hành Chỉ thị số 48-TTg/NG ngày 02/6/1969 của Thủ tướng Chính Phủ về việc giữ gìn, nâng cao sức khỏe học sinh; thi hành Nghị quyết cuộc họp liên tịch giữ hai Bộ Y tế và Giáo dục ngày 09/3/1973, hai Bộ đã nhất trí đề ra phương hướng nhiệm vụ công tác y tế trường học hiện nay như sau.

I. NHIỆM VỤ CỤ THỂ

1. Phát động sâu rộng phong trào vệ sinh, nếp sống văn minh trong nhà trường, củng cố xây dựng nề nếp, thôi quen tốt về vệ sinh.

- Vệ sinh cá nhân: Giáo dục học sinh giữ gìn thân thể, đầu tóc, quần áo sạch, tay sạch, móng tay ngắn, chân đi guốc dép, không uống nước lã, không hút thuốc; học sinh gái từ 13 tuổi trở lên biết vệ sinh gái (vệ sinh lao động, vệ sinh kinh nguyệt...).

- Vệ sinh hoàn cảnh: thường xuyên giữ gìn vệ sinh trường lớp. Nhà trường phải có thùng rác, có hố rác, có đủ hố tiêu, hố tiểu sạch cho nam, nữ.

- Vệ sinh học tập: giáo dục học sinh ngồi học, đọc viết, đúng tư thế (không nghiêng đầu, vẹo cổ, lệch vai, không tì ngực vào bàn...) học ở nhà buổi tối phải có đèn sáng, thực hiện nghiêm túc thời gian nghỉ ngơi giữa các tiết học, thực hiện ngủ đúng giờ.

- Vệ sinh lao động: giáo dục lao động vừa sức, phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với sức khỏe. Khối lương mang vác, gánh không quá 2/3 trọng lượng cơ thể, thời gian lao động không kéo dài, dụng cụ lao động phải nhẹ nhàng phù hợp với tầm vóc học sinh..

2. Tích cực khắc phục khó khăn để giải quyết bàn ghế, ánh sáng.

Không để học sinh phải ngồi đất hoặc đứng để học. Phải sửa chữa bàn nghế, bảng hư hỏng, sắp xếp bàn ghế hợp lý. Nếu phải học chung phòng học thì không được chênh quá 3 lớp (ví dụ lớp 1 có thể ngồi chung bàn ghế của lớp 2 và 3, không ngồi chung bàn ghế của lớp 4, lớp 5). Bàn ghế phải đúng quy cách (theo 6 loại đã quy định) .

Bảo đảm đủ ánh sáng cho học sinh học (từ 50 lux trở lên). Trong lớp quét vôi trắng, mở thêm cửa sổ, tăng bóng đèn điện (nơi có điện). Có bảng rộng, đủ kích thước, sơn đen, treo bảng đúng quy định, chữ viết to nét, rõ ràng.

Các học sinh mắt kém hoặc thấp nhỏ nên cho ngồi các bàn trên gần bảng.

3. Tích cực phòng bệnh mùa hè, mùa đông cho học sinh.

Mùa hè:  Tổ chức để học sinh có nước đun sôi để uống, không uống nước lã, không ăn rau sống, không ăn thức ăn ôi thiu. Đi học phải mang nón mũ, không chơi đùa ngoài trời nắng. Nhà trường không tổ chức diễn tập, nói chuyện ngoài trời nắng. Phát động phong trào trồng cây xanh trong nhà trường. Ở thành phố, thị xã, các trường có điều kiện cần đề nghị mắc quạt trần. Cố gắng tránh học vào trưa (từ 11giờ đền 14 giờ) nhất là đối với học sinh nhỏ (các trường ở miền núi cao, mát có thể sắp xếp thì giờ cho thích hợp).

Tăng cường các nguồn nước sạch cho nhà trường nhất là trường nội trú để học sinh tắm rửa, như thêm vòi nước, đào thêm giếng nước, có nhà tắm cho nam, nữ.

Vận động học sinh tích cực tham gia diệt ruồi, muỗi, chuột.

Mùa đông: giáo dục học sinh và vận động phụ huynh học sinh cho học sinh mặc ấm, ăn uống nóng, ăn thức ăn có nhiều đạm, mỡ.

Sắp xếp thời gian học tập không quá sớm về buổi sáng, không quá muôn vào buổi chiều, nhất là đối với các học sinh nhỏ. Tránh các cuộc họp ban đêm và ngoài trời. Ở các trường miền núi cần vận động chống lạnh cho học sinh. Mua ni lông trong làm cửa. Ở thành phố tăng thêm đèn điện.

4. Làm tốt công tác phòng, chống dịch:

Y tế địa phương phối hợp với nhà trường tổ chức tiêm chủng, uống thuốc sinh hóa phòng bệnh cho tất cả giáo viên và học sinh (100%), có sổ sách ghi chép đầy đủ rõ ràng và giữ nhiều năm. Đối với học sinh mẫu giáo, vỡ lòng chú ý triệt để uống thuốc phòng bại liệt, chủng đậu.

Nhà trường có biện pháp tích cực và kịp thời phòng, chống dịch theo quy định và hướng dẫn của y tế (khai báo, cách ly, cho nghỉ học, tiêm chủng, uống thuốc, giờ thuốc phòng, v.v...).

5. Tích cực tham gia phong trào vệ sinh địa phương.

Nhà trường phải gương mẫu về vệ sinh, đồng thời làm nồng cốt trong phong trào vệ sinh,  nếp sống văn minh ở địa phương: thôn xóm, đường phố, gia đình, tập thể.

6. Tích cực đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao.

Đi đôi với công tác vệ sinh, phòng bệnh, cần thường xuyên tập thể dục, rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn.

Đối với những học sinh đã bị cong vẹo cột sống thì áp dụng phương pháp chữa bằng thể dục chỉnh hình đã được phổ biến (nhà trường phối hợp với cơ quan y tế và thể thao ở địa phương hướng dẫn và đôn đốc học sinh thực hiện).

[...]