BỘ CÔNG AN-BỘ
THUỶ LỢI-BỘ TƯ PHÁP
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 03-LB
|
Hà Nội, ngày 23
tháng 07 năm 1958
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC BẢO VỆ NÔNG GIANG
Kính
gửi: Ủy ban Hành chính liên khu, tỉnh và thành phố
Từ khi hòa bình được lập lại, thực
hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, ngành thủy lợi đã phục hồi các hệ thống
nông giang cũ và đang xây dựng một số hệ thống nông giang mới, để đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, góp phần vào việc giao thông vận tải, phát triển kinh tế nói
chung.
Các hệ thống nông giang ấy đã
góp phần lớn trong việc tăng tổng số thu hoạch về chiêm và mùa của kế hoạch sản
xuất nông nghiệp toàn miền Bắc. Nhưng công tác bảo vệ các hệ thống nông giang
chưa được tốt, nhất là trong các vụ chiêm vụ mùa năm 1956, 1957, nên một số phần
tử xấu tự tư tự lợi, nhân lúc tình hình nông thôn chưa ổn định, đã tự động xẻ
kênh, máng, đóng, mở cống, đập hoặc nâng cao hay hạ thấp các cống chân rết, làm
hư hỏng công trình, gây khó khăn cho việc thực hiện kế hoạch phân phối và điều
hòa nước trên các hệ thống nông giang và khó khăn cho công tác phòng chống hạn,
ảnh hưởng không tốt đến kế hoạch sản xuất nông nghiệp.
Nguyên nhân chính là do các cấp
chính quyền địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác quản lý nông giang,
chưa có kế hoạch và chế độ cụ thể trong việc sử dụng và bảo vệ nông giang, mặt
khác cũng chưa có biện pháp xử trí thích đáng đối với những phần tử xấu cố tình
phạm pháp.
Để bổ khuyết, những thiếu sót
trên và tiến hành việc bảo vệ nông giang được tốt, Liên bộ Thủy lợi, Tư pháp,
Công an quy định như sau:
I. NỘI DUNG
CÔNG TÁC BẢO VỆ NÔNG GIANG
Bảo vệ nông giang là nhiệm vụ
chung của toàn dân, nên mỗi một người dân phải có trách nhiệm bảo vệ đê, đập,
kênh, máng, kè, cống… đồng thời có trách nhiệm giáo dục, phát hiện và ngăn chặn
kịp thời những người vì tự tư tự lợi mà làm hư hại đến nông giang, hoặc những
phần tử phản động có hành động phá hoại nông giang.
Để việc bảo vệ nông giang được tốt,
nay quy định những điều sau đây:
Điều 1.
– Về đập
Ở thượng lưu và hạ lưu cách các
đập ngăn sông trong phạm vi 100 thước về mùa khô và 500 thước về mùa mưa, không
được đậu thuyền bè, không được đánh cá, tắm giặt. Trong phạm vi 100 thước ở hai
đầu đập không được đào đất, làm nhà trồng cây, thả trâu bò, làm bến bốc hàng
hóa và nơi dự trữ vật liệu.
Ở thượng lưu và hạ lưu cách các
đập điều hòa, các âu thuyền trong phạm vi 100 thước, không được đậu thuyền bè,
không làm bến bốc hàng hóa. Trong phạm vi 100 thước ở hai đầu đập và âu
thuyền, không được làm nhà, trồng cây, chất vật liệu, thả trâu bò.
Điều 2.
– Về cống
Cách các cống tiêu nước và cống
lấy nước trong phạm vi 100 thước không được đậu thuyền bè, không được làm bến bốc
vác, làm nhà, trồng cây và đào đất.
Không được tự tiện đóng hoặc mở
cống tiêu nước, cống lấy nước (kể cả cống chân rết). Muốn mở hoặc đóng phải đề
nghị Ban quản trị nông giang giải quyết.
Điều 3. –
Về kênh
Cấm không được cho trâu bò lội
lòng kênh, không được tắm giặt ngoài những nơi đã quy định. Không được xây bậc
lên xuống lòng kênh nếu không được sự đồng ý của Ban quản trị nông giang.
Không được tháo nước các vườn tược,
đồi núi vào các kênh tưới nước của nông giang.
Không được tự ý làm đập ngăn nước
trong kênh máng. Không được chắn đăng đó đơm cá trong kênh máng, đánh cá bằng
mìn ở gần các công trình như trong kênh máng, không được ngâm tre, gỗ, nứa…
trong kênh máng, không được thả thuyền bè, tre, nứa gỗ… trong những kênh không
dùng cho vận tải. Trong trường hợp đặc biệt, phải được Ban quản trị nông giang
cho phép mới được làm những việc trên, trừ trường hợp đánh cá bằng mìn là tuyệt
đối cấm. Không được vất xác súc vật, đất, đá, rác và những vật dơ bẩn vào kênh
máng.
Thuyền bè chỉ được xếp hàng hóa ở
những bến do Ban quản trị nông giang quy định.
Không được cuốc xẻn bờ kênh và tự
ý đặt cống chân rết, ống bương, ống nứa trong bờ kênh chính và kênh nhánh.
Không được xẻ kênh máng hoặc tát nước qua bờ kênh.
Trên mặt bờ kênh nói chung không
được thả trâu bò dẫm phá, không được trồng cây, làm nhà, đóng cọc, chặt những vật
ngăn trở giao thông v.v… xe ô tô chỉ được đi trên những đường bờ kênh đã được
Liên bộ Thủy lợi và Giao thông Bưu điện quy định.
Không được tự tiện bắc cầu qua
nông giang.
Trên đất lưu không ở hai bên
kênh, không được đào thùng đấu, ao, giếng, không được làm nhà nửa. Muốn trồng
trọt trên đất lưu không phải được Ủy ban Hành chính cho phép.
Điều 4.
– Về máy bơm nước
Không được đặt máy bơm lấy nước ở
nông giang, nếu không được phép Ban quản trị nông giang.
Trong phạm vi 50 thước xung
quanh các trạm bơm nước, cấm không được đào đất, thả trâu bò. Những người không
có trách nhiệm không được vào các trạm máy bơm nước.
Điều 5.
– Về đường giây điện tin, điện thoại của nông giang
Không được buộc thuyền bè hay
gia súc vào cột điện hay cột điện thoại thuộc hệ thống nông giang. Không được đốt
nương đồi ngay dưới đường giây điện thoại và đường giây điện cao thế hoặc hạ thế;
không được làm nhà, cầy cuốc, phạm vào mô đất có trồng cột điện tín, điện thoại;
nghĩa là không được làm bất cứ một việc gì làm yếu chân cột điện thoại, điện
tín.
Điều 6.
– Cấm lấy hoặc phá phách các vật liệu của nông giang như: ván, gỗ, bù loong,
giây điện thoại, đá lát kè v.v… ai phạm xem như phá hoại nông giang.
II. PHƯƠNG
CHÂM VÀ CHÍNH SÁCH XỬ LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VỤ PHẠM PHÁP
Trong công tác bảo quản nông
giang, phải theo đúng phương châm: “đối với nhân dân thì kiên trì giáo dục là
chính làm cho mọi người tự nguyện tự giác bảo vệ nông giang, cần thiết lắm mới
dùng biện pháp hành chính hoặc luật pháp để xử lý. Đối với những phần tử xấu, đối
với địch cố tình phá hoại thì phải kiên quyết trừng trị”.
Đồng thời, mỗi khi có việc xẩy
ra, phải điều tra thu thập đầy đủ tài liệu về người phạm pháp, về tác hại gây
ra, rồi căn cứ vào động cơ phạm pháp do vô ý, do tự tư tự lợi hay do cố tình
phá hoại và căn cứ vào sự thiệt hại nhỏ hay lớn mà tùy từng trường hợp xử lý
cho thích đáng.
Hình thức xử lý gồm có tự phê
bình, cảnh cáo, bồi thường thiệt hại đến phạt tù hoặc trừng trị nặng hơn nữa
như sắc lệnh số 06-SL ngày 18-06-1949 và 267-SL ngày 15-06-1956 đã quy định, cụ
thể là;
- Đối với những người vì cố ý mà
phạm pháp, gây thiệt hại nhỏ và biết hối lỗi thì sẽ do Ủy ban hành chính xã quyết
định phê bình và phải bồi thường thiệt hại. Nếu gây tác hại lớn thì sẽ bị cảnh
cáo và bồi thường thiệt hại.
Trường hợp đặc biệt cần phải xử
lý với hình thức cao hơn thì phải do Ủy ban hành chính tỉnh quyết định.
- Đối với những người vì tự tư tự
lợi mà phạm pháp nếu là lần đầu và gây thiệt hại nhỏ thì sẽ bị cảnh cáo và bồi
thường thiệt hại. Nếu tái phạm nhiều lần thì dù gây ra tác hại nhỏ hay lớn,
cũng phải truy tố trước tòa án.
Khi xử lý các trường hợp trên
đây Ủy ban hành chính xã cần tranh thủ ý kiến của nông hội và Ban quản trị nông
giang trước khi quyết định.
- Đối với những phần tử xấu hay
bọn phản cách mạng đang chuẩn bị tổ chức phá hoại, dù chưa gây ra thiệt hại hoặc
đã gây ra thiệt hại đều phải nghiêm trị, truy tố trước tòa án theo những điều
đã quy định trong sắc lệnh số 267-SL ngày 15-06-1956.
Nếu những trường hợp phạm pháp
trên xẩy ra trong khi chuẩn bị tưới, hoặc trong lúc tưới chiêm và mùa, thì sẽ bị
xử lý nặng hơn lúc bình thường.
III. NHIỆM VỤ
CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN
Nhiệm vụ của các cấp chính quyền
là phải hướng dẫn, giáo dục nhân dân, biến những điều quy định trên trở thành
giao ước của quần chúng, để quần chúng tự nguyện tự giác thi hành. Đồng thời có
kế hoạch bảo vệ nông giang, đề phòng và ngăn chặn kịp thời những vụ gây thiệt hại,
điều tra tìm ra kẻ địch phá hoại để kiên quyết trừng trị.
Để việc giáo dục nhân dân được
chu đáo, các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phải hướng dẫn kế hoạch cho các
Ủy ban hành chính huyện, xã cùng với các đoàn thể quần chúng như nông hội,
thanh niên, phụ nữ làm những việc:
- Tổ chức nhân dân học tập về
tác dụng quan trọng của nông giang đối với sản xuất nông nghiệp, đối với đời sống
của nông dân và nhân dân nói chung để mỗi người có ý thức bảo vệ nông giang và
học tập kế hoạch phân phối nước, quy chế bảo vệ nông giang, làm thành những điều
trong quy ước bảo vệ sản xuất ở thôn xã.
Cần phát thanh giải thích chu
đáo và viết bảng niêm yết quy chế bảo vệ nông giang để thường xuyên nhắc nhở
nhân dân thực hiện.
- Giáo dục tinh thần cảnh giác
cho quần chúng, làm cho nhân dân có trách nhiệm giáo dục lẫn nhau, ngăn ngừa những
hành động tự tư tự lợi gây hại đến nông giang và có trách nhiệm báo cáo với
chính quyền những kẻ phá hoại nông giang.
- Phổ biến rộng rãi sắc lệnh số
06-SL ngày 18-06-1949 trừng trị hành động phá hoại công trình thủy nông và sắc
lệnh số 267-SL ngày 15-06-1956 trừng trị những hành động làm trở ngại công cuộc
khôi phục kinh tế, để nhân dân biết và nghiêm chỉnh chấp hành.
Để công tác bảo vệ nông giang được
tốt, Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh có nông giang chảy qua có trách nhiệm
thường xuyên đôn đốc, kiểm tra cấp dưới về việc bảo vệ nông giang nhất là trong
khi có hạn, bão, lụt hoặc trong khi chuẩn bị tưới nước cho ruộng. Đi đôi với việc
hướng dẫn nhân dân thực hiện quy chế bảo vệ nông giang, các cấp chính quyền
cần phân cấp quản lý các công trình lớn nhỏ:
- Các hệ thống nông giang liên tỉnh
như: Hà Đông, Hà Nam, Sơn Tây, Chương Mỹ (Liên khu 3), Kim Thành, An Dương, Hải
An (Tả Ngạn Hải Phòng);… và các hệ thống hàng tỉnh sẽ do Ủy ban hành chính tỉnh
thành phố trực tiếp quản lý, mỗi địa phương chịu trách nhiệm bảo vệ nông giang
và các công trình thủy lợi trong phạm vi ở địa phương mình.
- Các công trình kiến trúc quan
trọng như: đập Bái Thượng, đập Đô Lương, đập Thác Huống, cống Liên Mạc, cống
Trà Linh v.v… sẽ do Ủy ban hành chính tỉnh trực tiếp chỉ đạo quản lý và bảo vệ.
- Các công trình kỹ thuật hạng
trung như: cống Bến Thôn, Nhật Tựu, Vân Đình v.v… sẽ do Ủy ban hành chính huyện
trực tiếp chỉ đạo quản lý và bảo vệ.
- Các mương máng , các cống đập
nhỏ nằm trong xã sẽ do Ủy ban Hành chính xã chịu trách nhiệm bảo vệ.
- Nhiệm vụ của các ngành có liên
quan đến việc bảo vệ các hệ thống nông giang là:
Ngành Thủy lợi có trách nhiệm hướng
dẫn các cấp dưới thực hiện nhiệm vụ bảo quản các công trình thủy lợi, các hệ thống
nông giang về mặt kỹ thuật.
Ngành công an có trách nhiệm điều
tra theo dõi, đề phòng, ngăn chặn, khám phá kịp thời bọn phá hoại các công
trình thủy lợi và các hệ thống nông giang.
Ngành dân quân có trách nhiệm tuần
tra bảo vệ các công trình thủy lợi và các hệ thống nông giang, cùng Công an
phát hiện và trấn áp kẻ địch phá hoại nông giang.
Nông hội có nhiệm vụ cùng với
các đoàn thể quần chúng khác giáo dục hướng dẫn nhân dân thực hiện các luật lệ,
quy chế bảo vệ nông giang.
Để các ngành phối hợp chặt chẽ
và thống nhất hoạt động trong công tác bảo vệ nông giang, Ủy ban Hành chính các
cấp có trách nhiệm triệu tập các ngành có liên quan nói trên, thảo luận kế hoạch
bảo vệ và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng ngành. Nếu các địa phương đã thành lập
Ban chỉ huy chống bão, lụt, hạn thì kết hợp chặt chẽ với Ban này để tiến hành
công tác bảo vệ nông giang.
Trên đây là những quy định về việc
bảo vệ nông giang và một số biện pháp đối phó với những vụ gây thiệt hại cho
các công trình thủy lợi và các hệ thống nông giang. Trong khi thực hiện, Ủy ban
Hành chính các cấp, các ngành Thủy lợi, Công an, Tòa án thấy có điều gì chưa
sát hợp hay còn thiếu sót hoặc gặp khó khăn trở ngại gì, thì báo cáo về Bộ Thủy
lợi, Công an và Tư pháp để nghiên cứu bổ sung thông tư và phổ biến kinh nghiệm
cho các nơi khác.
Công tác bảo vệ các công trình
thủy lợi và các hệ thống nông giang là một trong những nhiệm vụ quan trọng để bảo
đảm thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp. Liên bộ mong Ủy ban các cấp và các
ngành tích cực chấp hành thông tư này để việc bảo vệ nông giang đạt được kết quả
tốt.
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
Trần Quốc Hoàn
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ THỦY LỢI
Trần Đăng Khoa
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Vũ Đình Hòe
|