Thông báo số 168/TB-VPCP về kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại hội nghị giao ban trực tuyến ban chỉ đạo điều phối, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm do Văn phòng Chính phủ ban hành

Số hiệu 168/TB-VPCP
Ngày ban hành 25/05/2009
Ngày có hiệu lực 25/05/2009
Loại văn bản Thông báo
Cơ quan ban hành Văn phòng Chính phủ
Người ký Phạm Văn Phượng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ 
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------

Số: 168/TB-VPCP

Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2009

 

THÔNG BÁO

KẾT LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG HOÀNG TRUNG HẢI TẠI HỘI NGHỊ GIAO BAN TRỰC TUYẾN BAN CHỈ ĐẠO ĐIỀU PHỐI, PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

Ngày 06 tháng 5 năm 2009, tại Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì Hội nghị giao ban trực tuyến Ban Chỉ đạo điều phối, phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm. Tham dự Hội nghị có lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Công thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn phòng Chính phủ và lãnh đạo 24 tỉnh, thành phố thuộc các vùng Kinh tế trọng điểm: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Sau khi nghe đại diện lãnh đạo các Bộ và một số địa phương báo cáo về kết quả thực hiện công tác điều phối năm 2008 và phương hướng của hoạt động điều phối năm 2009, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải kết luận như sau:

I. ĐÁNH GIÁ CHUNG

Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm trong thời gian qua cho thấy công tác điều phối trong việc điều hành, phát triển kinh tế đã từng bước đi vào ổn định, đạt được kết quả khả quan, tính liên kết nội vùng giữa các địa phương cũng từng bước được cải thiện, tạo điều kiện giúp các địa phương trong việc khai thác tiềm năng thế mạnh trong phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Năm 2008, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, giá cả vật tư, hàng hóa biến động mạnh) nhưng các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm đã đạt được kết quả khá toàn diện: tốc độ tăng trưởng trung bình đạt trên 13% (cả nước 6,23%); GDP bình quân đầu người đạt 28 triệu đồng gấp đôi bình quân cả nước (14 triệu đồng); công nghiệp chiếm 91,8%, nông nghiệp chiếm 67,8%; Dịch vụ chiếm 95,7%; Thu ngân sách đạt 89% của cả nước; Giá trị xuất khẩu chiếm tỷ lệ khoảng 96,7% của cả nước; Các khu kinh tế, khu công nghiệp tại các Vùng kinh tế trọng điểm hoạt động ngày càng có hiệu quả. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục có nhiều tiến bộ; an ninh quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

Trước những đóng góp quan trọng của mô hình Vùng kinh tế trọng điểm đối với phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 492/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009, phê duyệt đề án thành lập Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau.

Năm 2009, kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn có nguyên nhân từ việc suy giảm kinh tế thế giới, công nghiệp – xây dựng tăng trưởng chậm, xuất khẩu có xu hướng giảm sút; du lịch đã có sự suy giảm cả về lượt khách và doanh thu, tại nhiều địa phương đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, một số vùng có nguy cơ tái nghèo. Mặc dù vậy, quý I năm 2009, kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng đạt 3,1% trong khi nhiều nước tăng trưởng âm.

Để kinh tế Việt Nam vượt ra khỏi khủng hoảng một cách bền vững đòi hỏi sự nỗ lực rất cao trong công tác điều hành chỉ đạo, phối kết hợp giữa các địa phương và các Bộ, ngành trung ương. Trước mắt cần tập trung giải quyết các tồn tại, yếu kém trong công tác điều phối, cụ thể như:

- Việc phối hợp triển khai các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong công tác điều hành chỉ đạo, phối kết hợp giữa các địa phương và các Bộ, ngành đối với các vùng kinh tế còn chậm. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa thấy rõ vai trò quan trọng của công tác điều phối, chưa có cán bộ chuyên trách, một số Tổ Điều phối (cả cấp Bộ, ngành và cấp tỉnh) thiếu chủ động trong công tác điều phối, cũng như đề xuất những vấn đề cụ thể cần được điều phối, chưa có kế hoạch cụ thể cho công tác điều phối.

- Việc cung cấp số liệu cho Văn phòng Ban Chỉ đạo để phục vụ công tác điều phối cần được thực hiện nghiêm túc, kịp thời. Cơ chế phối hợp giữa các địa phương trong các Vùng kinh tế trọng điểm vẫn mang tính hình thức. Một số cam kết, thỏa thuận giữa lãnh đạo các địa phương trong các Vùng kinh tế trọng điểm được thực hiện ở mức độ thấp.

- Sự phân công giữa các Vùng kinh tế trọng điểm, giữa các tỉnh trong cùng một Vùng kinh tế trọng điểm chưa hợp lý, vẫn còn xảy ra việc đầu tư trùng lắp. Các tỉnh, các Vùng chưa phát huy được lợi thế so sánh của mình.

II. CÁC NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI:

1. Để nâng cao tính hiệu quả của công tác điều phối và sự phối hợp giữa các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm, giữa các địa phương với các Bộ, yêu cầu tất cả các Bộ, ngành và các địa phương thuộc 4 Vùng kinh tế trọng điểm thực hiện tốt công tác tổng kết đánh giá hoạt động điều phối, kịp thời đề xuất các kiến nghị về Văn phòng Ban Chỉ đạo để tổng hợp, báo cáo lên Ban Chỉ đạo.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

a) Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các Vùng kinh tế trọng điểm; cùng với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm (đặc biệt là Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long) rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phù hợp với chiến lược phát triển của từng địa phương, từng Vùng để tạo tính liên kết hợp lý, phù hợp.

b) Đối với Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long: Bộ Kế hoạch và Đầu tư  phối hợp với Văn phòng Ban Chỉ đạo và các địa phương tổ chức Hội nghị giao ban, khảo sát tình hình kinh tế xã hội tại các tỉnh thuộc Vùng, đề xuất nâng mức hỗ trợ cho các địa phương trong Vùng, thực hiện ý kiến chỉ đạo tại Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.

c) Văn phòng Ban Chỉ đạo phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương tổ chức các Hội nghị chuyên đề, giải quyết các vấn đề cụ thể theo kế hoạch đã trình, tổng hợp các kiến nghị đề xuất của các Bộ, ngành và địa phương báo cáo lên Ban Chỉ đạo.

d) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp bổ sung 3 cụm hồ chứa nước phục vụ Khu công nghiệp và Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Hoa Lư (tỉnh Bình Phước) vào danh mục đầu tư bằng nguồn Trái phiếu Chính phủ giai đoạn tới, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

đ) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp bổ sung dự án tiêu úng và thoát lũ sông Thoa (tỉnh Quảng Ngãi) vào danh mục đầu tư từ nguồn Trái phiếu Chính phủ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

e) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp bổ sung các công trình Hồ chứa nước: Yên Trung, Quất Đông, Khe Cát, Lưỡng Kỳ, Lòng Dinh (tỉnh Quảng Ninh) vào danh mục các công trình đầu tư từ nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

g) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc ứng vốn để Tỉnh thực hiện một số dự án, cụ thể: hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng đối với dự án hồ Sông Ray trong năm 2009; triển khai dự án cầu đường Gò Găng, được khởi công vào ngày 19/5/2009; xem xét ứng vốn phục vụ công tác giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện để các dự án FDI quan trọng trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu sớm được thực hiện.

h) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính bố trí ứng vốn theo khối lượng thực hiện dự án cầu Vĩnh Tuy (Hà Nội), đưa vào sử dụng theo đúng tiến độ.

i) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính bố trí ứng vốn kế hoạch năm 2010 để tỉnh Thừa Thiên Huế thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng thiết yếu Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô.

3. Bộ Tài chính: Phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội lên phương án cấp bù lãi suất của Quỹ đầu tư phát triển Thành phố cho Công ty điện lực Hà Nội vay, nhằm đầu tư, cải tạo nâng cấp lưới điện hạ thế tại 13 xã miền núi có điều kiện kinh tế khó khăn.

4. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:

a) Phối hợp chặt chẽ với các địa phương thuộc các Vùng kinh tế trọng điểm, trong việc kiểm soát tình hình mất việc làm và thiếu việc làm, kịp thời tham mưu cho Chính phủ ban hành những chính sách thích hợp trước các diễn biến của thị trường lao động – việc làm.

b) Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, phối hợp với Văn phòng Ban Chỉ đạo và các địa phương tổ chức các Hội nghị chuyên đề nhằm đáp ứng nhu cầu của các địa phương, doanh nghiệp tại 4 Vùng kinh tế trọng điểm phù hợp với các diễn biến mới của tình hình kinh tế.

[...]