HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số:
272-CP
|
Hà
Nội, Ngày 03 Tháng 10 Năm 1977
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN
XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP, XÂY DỰNG VỪNG KINH TẾ MỚI, THỰC HIỆN ĐỊNH CANH, ĐỊNH CƯ.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng
Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong hội nghị Thường vụ của Hội đồng
Chính phủ ngày 27-8-1977 về việc Nhà nước đầu tư, hỗ trợ hợp tác xã mở rộng diện
tích sản xuất nông, lâm nghiệp.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
– Nay ban hành kèm theo quyết định này bản quy định về
chính sách đối với hợp tác xã mở rộng diện tích sản xuất, nông, lâm nghiệp, xây
dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh, định cư.
Điều 2.
– Những quy định đã ban hành trước đây trái với chính
sách ban hành kèm theo quyết định này đều bãi bỏ.
Điều 3.
– Các ông Bộ trưởng các Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Tài
chính, Lương thực và thực phẩm, Giao thông vận tải, Thủy lợi, Nội thương, Lao động,
Y tế, Giáo dục, Văn hóa, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Vật
giá Nhà nước, Tổng giám đốc ngân hàng Nhà nước và thủ trưởng các ngành có liên
quan khác ra thông tư riêng hoặc thông tư liên bộ hướng dẫn việc thi hành chính
sách này.
Điều 4.
– Các ông Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Hùng
|
QUY ĐỊNH
VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN
XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP, XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI,THỰC HIỆN ĐỊNH CANH, ĐỊNH CƯ.
(Ban hành kèm theo quyết định số 272-CP ngày 3-10-1977)
Để thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IV và nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa IV, cần phải đẩy mạnh việc mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp
nhằm:
- Phân bố và sử
dụng hợp lý sức lao động thừa với sức lao động chưa được sử dụng tốt ở các tỉnh,
thành phố.
- Phát huy thế mạnh kinh tế nông
nghiệp, lâm nghiệp của cả nước, xây dựng các vùng kinh tế mới, góp phần củng cố
quốc phòng, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội;
- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
và lâm nghiệp nhằm đáp ứng công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cải
thiện đời sống nhân dân.
Được sự giúp đỡ của Nhà nước,
các hợp tác xã trong việc khai hoang mở rộng diện tích sản xuất nông lâm nghiệp
phải phấn đấu theo những yêu cầu và phương hướng sau đây:
1. Phát huy đến mức cao
nhất nhiệt tình cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể, ý thức tự lực tự cường,
không ỷ lại vào Nhà nước, quyết tâm phấn đấu, không sợ khó khăn gian khổ, làm
cho cuộc vận động mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng
kinh tế mới, thực hiện định canh định cư, trở thành một phong trào cách mạng của
quần chúng hăng hái làm nghĩa vụ với Tổ quốc.
2. Phải làm theo đúng quy
hoạch, quy trình kỹ thuật, đi vào thâm canh, chuyên canh, sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp. Chấp hành
nghiêm chỉnh pháp lệnh bảo vệ rừng, khắc phục tệ phá rừng, bảo vệ đất, xóa hẳn
việc du canh du cư, đảm bảo hiệu quả kinh tế vững chắc và lâu dài.
3. Hợp tác xã phải tận dụng
sức lao động, tiền vốn của mình nhanh chóng tạo ra nguồn tích lũy nội bộ để
không ngừng phát triển sản xuất, thực hiện lấy ngắn nuôi dài, tận dụng khả năng
đất đai để sản xuất lương thực, thực phẩm, đồng thời đẩy mạnh phát triển cây
công nghiệp, chăn nuôi, nghề rừng, chế biến nông, lâm sản.
4. Thúc đẩy việc cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết
hợp định canh định cư với hợp tác hóa, thực hiện đúng đắn chính sách dân tộc của
Đảng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau đây là nội dung chính sách.
I. GIAO ĐẤT
GIAO RỪNG ĐỂ HỢP TÁC XÃ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ LÂM NGHIỆP
Đất đồi núi, rừng và đất đai
chưa khai phá đều thuộc quốc gia công thổ, không ai được chiếm làm của riêng. Để
các hợp tác xã có điều kiện phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh, Nhà nước
giao cho mỗi hợp tác xã một diện tích đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, trồng
cây gây rừng. Mỗi hộ xã viên được cấp một số đất theo điểm 2 dưới đây.
1. Mỗi hợp tác xã được
giao một diện tích đất hoặc diện tích rừng ở gần hợp tác xã để phát triển nông
nghiệp và lâm nghiệp tương ứng với số lao động có trong thời gian 5 năm kể từ
ngày đăng ký xin đất dùng vào việc sản xuất, theo tiêu chuẩn một lao động nông,
lâm nghiệp từ 1 ha đến 4 ha, tùy theo từng loại cây trồng và sản phẩm làm ra
đòi hỏi nhiều hay ít công lao động để sản xuất thâm canh và chế biến.
Căn cứ vào bản đồ phân vùng sản
xuất nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản của tỉnh do Hội đồng
Chính phủ thông qua và phương hướng sản xuất của từng vùng đã được Ủy ban nhân
dân tỉnh xác định, Ủy ban nhân dân huyện,tùy theo điều kiện đất đai và khả năng
lao động của từng hợp tác xã, giao đất và giao rừng cho hợp tác xã sản xuất
kinh doanh. Ủy ban nhân dân tỉnh phải tổ chức phúc tra để kịp thời điều chỉnh,
bảo đảm thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước.
2. Mỗi hộ gia đình được cấp
đất thổ cư từ 200 m2 đến 300 m2 và đất làm kinh tế phụ từ
500 m2 đến 700 m2 tùy theo tình hình đất đai ở mỗi địa
phương; đất kinh tế phụ có thể ở gần khu vực đất thổ cư và cũng có thể ở ngoài
khu vực đất thổ cư.
3. Các hợp tác xã phải sử
dụng tốt đất và rừng được giao.
Sau khi được giao đất, giao rừng
trong thời gian từ 3 đến 7 năm, tùy theo đất và loại cây trồng, các hợp tác xã
phải đưa hết đất và rừng vào sản xuất theo quy hoạch, không được bỏ hoang hóa,
Các Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đôn đốc
kiểm tra các cơ sở được giao đất, giao rừng thực hiện nghiêm chỉnh những quy định
về sử dụng đất đai, về quản lý bồi dưỡng rừng, khai thác rừng hợp lý và bảo vệ
rừng, nhất là rừng đầu nguồn, tuyệt đối cấm khai thác bừa bãi và phá rừng. Nếu
đơn vị hoặc cá nhân được giao đất, giao rừng, không làm đúng quy hoạch, quy
trình kỹ thuật, hoặc quá thời hạn đã quy định mà không dùng hết đất thì Nhà nước
sẽ lấy lại và phân phối cho đơn vị khác, người khác làm.
II. CHÍNH
SÁCH ĐẦU TƯ CHO HỢP TÁC XÃ
1. Nhà nước đầu tư vốn cho
công tác khai hoang mở rộng diện tích theo phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ vốn
cho hợp tác xã khai hoang mở rộng diện tích để kinh doanh nông, lâm nghiệp như
sau:
a) Đối với diện tích được mở rộng
để sản xuất nông nghiệp, Nhà nước đầu tư hỗ trợ vốn cho hợp tác xã để khai
hoang, xây dựng thành đồng ruộng, còn sản xuất kinh doanh thì hợp tác xã dùng vốn
tự có của mình, và được ngân hàng cho vay thêm nếu cần để trồng và chăm sóc.
Để vận dụng cho sát với điều kiện
đất đai của mỗi vùng và quy trình kỹ thuật của cây trồng, bảo đảm thâm canh lâu
dài, Nhà nước quy định mức chỉ đạo đầu tư hỗ trợ vốn để khai hoang và xây dựng
thành đồng ruộng cho 1 ha đối với các loại cây trồng như sau:
Loại cây trồng
|
Cây lương thực, thực phẩm, cây
công nghiệp ngắn ngày, đồng cỏ thâm canh
|
Cây công nghiệp dài ngày, cây
ăn quả
|
Loại đất khai hoang
|
- Đất bằng hoặc đất tương đối
bằng, chỉ
có cỏ rác hoặc xim mua, lau
lách.
- Đất có độ dốc khoảng 50
– 70 trở
xuống, mật độ gốc cây không nhiều.
- Đất có độ dốc khoảng trên dưới
10,
mật độ gốc cây trung
bình.
- Đất có độ dốc trên dưới 15 độ,
có nhiều
gốc cây lớn.
|
30 – 600đ
600 – 1000đ
1000 – 1400đ
1400 – 1800đ
|
300 – 700đ
700 – 1000đ
1000 – 1400đ
|
Đối với một số trường hợp cụ thể
như đất thì bằng nhưng có nhiều gốc cây to hay ngược lại và đối với những nơi đất
lầy thụt, đất có nhiều sỏi, đá… thì tùy theo điều kiện cụ thể tính toán công sức,
phí tổn cần thiết bỏ ra mà vận dụng vào các định mức của các loại đất được quy
định trên cho thích hợp.
Về cây trồng: đối với cây lương
thực, nếu là cây trồng cạn, xây dựng đồng ruộng ít tốn kém hơn so với làm ruộng
nước, thì vận dụng ở mức thấp, đồng cỏ thâm canh, vận dụng như đối với cây
lương thực trồng cạn; đối với cây công nghiệp những loại như trẩu, sở… thì vận
dụng mức thấp hơn so với các loại cây như chè, dâu tằm… đòi hỏi quy trình thâm
canh cao phải xây dựng đồng ruộng tốn kém hơn.
b) Đối với diện tích mở rộng để
trồng rừng, Nhà nước đầu tư hỗ trợ vốn cho hợp tác xã để khai hoang trồng và chăm
sóc trong 3 năm, bảo đảm mật độ quy định và cây trồng xanh tốt; đối với rừng tự
nhiên là để tu bổ một lần, đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật.
Mức chỉ đạo đầu tư hỗ trợ vốn
cho hợp tác xã để khai hoang, trồng và chăm sóc trong 3 năm một số cây trồng
chính như sau:
Loại cây trồng
|
Mật độ cây trồng cho 1 ha
|
Mức đầu tư hỗ trợ cho 1 ha
|
Thông và sa mộc
Mỡ, bạch đàn, bồ đề, quế
Phi lao
Tre luồng
Câu chủ cánh kiến
(cọ khiết) (cọ phèn)
Tu bổ rừng
|
3300 cây
3300 cây
5000 cây
300 – 400 gốc
1000 cây
|
600 – 900đ
500 – 800đ
300 – 500đ
400 – 600đ
400 – 700đ
60 – 100đ
|
Đối với những cây khác chưa có
trong danh mục trên đây, Ủy ban nhân dân tỉnh đề nghị mức đầu tư hỗ trợ về Bộ
Lâm nghiệp xét trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Căn cứ vào mức chỉ đạo đối với
các loại cây trồng như đã nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Bộ Lâm nghiệp sau khi
trao đổi với Bộ Tài chính sẽ có hướng dẫn mức cụ thể từng vùng cho tỉnh để vận
dụng. Dựa vào mức chỉ đạo của trung ương và mức hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và
Bộ Lâm nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh phải xét duyệt mức cụ thể cho từng tiểu
vùng trong tỉnh và hướng dẫn các huyện để làm căn cứ lập tự toán và tổ chức chỉ
đạo thực hiện. Ủy ban nhân dân huyện duyệt mức cho các hợp tác xã và Ủy ban
nhân dân tỉnh phúc tra để bảo đảm thực hiện tốt chính sách.
2. Ở những vùng được Nhà nước
đầu tư hỗ trợ vốn khai hoang mở rộng diện tích sản xuất, để đảm bảo những
yêu cầu hợp lý về sản xuất và đời sống chung trong vùng, Nhà nước đầu tư vốn
xây dựng những công trình phục vụ sản xuất như thủy lợi dẫn nước đến khoảnh, đường
giao thông nối liền đường trục chính với khu sản xuất, khu dân cư, đường vận xuất
và bãi bến lâm sản, những công trình phục vụ đời sống và phúc lợi công cộng như
các cửa hàng, cơ sở y tế, trường học…
Những công trình này phải phù hợp
với quy hoạch chung của huyện.
3. Về việc các hợp tác xã được
vay vốn của ngân hàng, quy định như sau:
- Khi tiến hành sản xuất, hợp
tác xã được vay vốn tín dụng dài hạn với lãi suất nhẹ để xây dựng sân phơi, nhà
kho, chuồng trại chăn nuôi, mua sắm tài sản cố định như trâu, bò cày kéo, đàn
gia súc cơ bản để chăn nuôi, máy bơm và các công cụ sản xuất khác, chi phí trồng
và chăm sóc các cây công nghiệp dài ngày trong thời kỳ xây dựng cơ bản; chi phí
về nuôi rừng (sau thời gian 3 năm trồng và chăm sóc) cho đến khi thu hoạch sản
phẩm.
- Được vay vốn tín dụng ngắn hạn
để chi phí sản xuất đối với cây ngắn ngày và cây dài ngày khi đi vào sản xuất
kinh doanh; chi phí chăn nuôi vỗ lớn, vỗ béo, chăn nuôi gia cầm, nuôi cá; chi
phí kinh doanh lâm sản và đặc sản dưới tán rừng, khai thác rừng tự nhiên, chế
biến tận dụng lâm sản, đặc sản; chi phí sản xuất kinh doanh các ngành, nghề
khác…
4. Các khoản trợ cấp khác.
a) Các hợp tác xã đến vùng kinh
tế mới ngoài việc được Nhà nước đầu tư hỗ trợ và cho vay vốn như đã nêu trên
còn được Nhà nước hỗ trợ thêm một số vốn để xây dựng những cơ sở cần thiết như:
- Trợ cấp cho mỗi gia đình từ
300 đến 500 đồng tùy theo điều kiện vật liệu ở từng nơi để xây dựng nhà ở. Trường
hợp những nơi có điều kiện chuyển nhà ở từ nơi đi đến nơi mới thuận lợi hoặc
nơi đã có sẵn nhà do địa phương đã xây dựng bước đầu thì Nhà nước trợ cấp cho mỗi
hộ từ 100 đến 300 đồng để di chuyển và củng cố những cơ sở đã có sẵn.
- Tùy theo tình hình cụ thể ở mỗi
vùng được Nhà nước hỗ trợ vốn để đào giếng hoặc xây dựng giếng khoan, bể chứa
nước… đảm bảo đủ nước sinh hoạt cho dân.
Ở miền tây Nam Bộ, cần kết hợp
xây dựng khu thổ cư với xây dựng thủy lợi; nơi nào xét cần thiết sẽ được trợ cấp
để vượt thổ làm nền nhà và trang bị xuồng, thuyền đi lại.
- Trợ cấp cho hợp tác xã từ 100
đồng đến 150 đồng trên mỗi hecta trồng mới để xây dựng một số công trình phúc lợi
công cộng như nhà trẻ, mẫu giáo, trụ sở làm việc… vốn trợ cấp được cấp phát
theo kế hoạch xây dựng của hợp tác xã.
b) Nhà nước đài thọ những chi
phí khác phục vụ cho cuộc vận động mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp
như trợ cấp chi phí làm quy hoạch, thiết kế cho hợp tác xã mới, chi phí để tổ
chức trạm ăn nghỉ dọc đường cho dân khi di chuyển.
c) Nhân dân di chuyển đến cơ sở
mới được trợ cấp để chi cho việc vận chuyển người, hành lý, lương thực, thực phẩm
mang theo, được chăm sóc về y tế, khi đi đường không phải trả tiền, khi ra đi
được mua áo rét (nếu ở vùng rừng núi), chăn, màn không phải phiếu vải nếu chưa
có. Khi đến nơi ở mới được hưởng các quyền lợi về chính trị, kinh tế, về phúc lợi
công cộng (y tế, giáo dục, văn hóa…) và có nghĩa vụ như nhân dân ở địa phương.
Trong 3 năm đầu được cấp thuốc phòng bệnh, được miễn bệnh viện phí (nếu ốm phải
nằm bệnh viện), được miễn nghĩa vụ dân công đi làm ở nơi khác (vẫn làm nghĩa vụ
dân công ở xã), được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự (trừ trường hợp khẩn cấp có lệnh
động viên).
Đối với những gia đình đi xây dựng
cơ sở mới có nhiều khó khăn, khi ra đi có thể được xét trợ cấp thêm một số tiền
để mua sắm một số dụng cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt. Riêng đối với đồng bào
ở thành phố, thị xã mới giải phóng được trợ cấp một số công cụ để sản xuất lần
đầu khi đến cơ sở mới. Những đồng bào này vì chưa quen với sản xuất nông nghiệp,
năng suất lao động lúc đầu còn thấp do đó thu nhập không đủ, có nhiều khó khăn
trong đời sống thì có thể được xét trợ cấp thêm trong thời gian không quá một
năm.
5. Các hợp tác xã được Nhà nước
đầu tư hỗ trợ và cho vay vốn để khai hoang phát triển sản xuất nông nghiệp và
lâm nghiệp, phải sản xuất kinh doanh theo đúng phương hướng sản xuất của vùng
và đúng với quy định về sử dụng đất, rừng được Nhà nước giao.
Những sản phẩm hàng hóa nông,
lâm nghiệp do các hợp tác xã sản xuất ra theo quy hoạch và kế hoạch phải bán
cho Nhà nước và được Nhà nước thu mua theo giá cả chung đã được Nhà nước quy định.
6. Những chính sách trên đây
áp dụng cho các hợp tác xã, và nhân dân ở các thành phố, thị xã, Việt kiều ở nước
ngoài về nước, chuyển đến vùng đất hoang, vùng quai đê lấn biển để xây dựng vùng
kinh tế mới theo quy hoạch được duyệt, đồng bào các dân tộc tiến hành định canh
định cư.
Những hợp tác xã ở miền núi,
trung du, ven biển mở rộng diện tích tại chỗ để sản xuất nông nghiệp hoặc được
giao thêm đất, thêm rừng để trồng tập trung và tu bổ theo quy hoạch cung cấp
nguyên liệu cho Nhà nước, quy hoạch phòng hộ các đầu nguồn xung yếu thì áp dụng
toàn bộ mục I và các điểm 1, 2, 3 mục II của chính sách (nếu trồng cây phân tán
thì áp dụng chính sách trợ cấp trồng cây nhân dân).
Riêng đối với đồng bào du canh
du cư, do đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội có nhiều khó khăn cho nên ngoài
những khoản trợ cấp nói trên còn được cấp thêm một lần các khoản sau đây:
- Chi phí trồng cây dài ngày,
cây đặc sản, và một phần chi phí trong thời kỳ chăm sóc;
- Chi phí lần đầu về giống và
phân bón hóa học để trồng cây ngắn ngày.
Những hộ đang du canh du cư, những
hộ ở vùng mới giải phóng đi khai hoang mở rộng diện tích ở các vùng kinh tế mới,
chính quyền huyện và xã, chính quyền khu phố phải đứng ra tổ chức thành các tổ,
hoặc đội sản xuất tập thể, từng bước tiến lên xây dựng thành hợp tác xã.
III. VIỆC TỔ
CHỨC DI CHUYỂN DÂN ĐI KHAI HOANG, XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI
1. Các hợp tác xã ở đồng
bằng phía Bắc có diện tích canh tác bình quân thấp, không có điều kiện phát triển
ngành nghề, thừa lao động, các thành phố, thị xã, thị trấn đông dân ở phía Nam
nhiều người có khả năng lao động, chưa có việc làm, có nhiệm vụ điều chuyển bớt
dân số đi xây dựng các vùng kinh tế mới.
Trong thời gian đầu, chỉ đưa những
lao động trẻ khỏe, có tinh thần hăng hái của những gia đình có nhiều lao động đến
cơ sở mới để chuẩn bị trước; khi ở nơi mới đã xây dựng được những cơ sở ban đầu
cần thiết và sản xuất được một phần lương thực, thực phẩm rồi mới đón gia đình
đến.
Những lao động đi trước cần được
tổ chức thành khung hợp tác xã, để đến cơ sở mới có điều kiện nhận đất, nhận rừng,
nhận vốn để tiến hành sản xuất.
Hợp tác xã ở nơi đi có trách nhiệm
bảo đảm công ăn việc làm, lương thực, thực phẩm cho những gia đình có người đi
trước cho đến khi họ đi hẳn đến cơ sở mới.
Các tỉnh, huyện có dân đi cần vận
động lao động lúc công nhân đi hỗ trợ xây dựng cơ sở ban đầu cho hợp tác xã ở
quê hương mới, (nếu hai địa phương có điều kiện tổ chức đi giúp đỡ cho nhau). Đối
với những nơi hai tỉnh ở xa nhau thì tỉnh đưa dân đi cần tuyển lựa những lao động
biết ngành nghề về xây dựng cơ bản, tổ chức thành đơn vị thi công đến vùng kinh
tế mới tham gia cùng tỉnh đón dân đi xây dựng cơ sở ban đầu của vùng. Riêng đối
với các tỉnh ở phía Nam có thể tổ chức theo hình thức thanh niên xung phong để
xây dựng vùng kinh tế mới.
2. Những người đi xây dựng
cơ sở mới phải đem theo lương thực đủ ăn trong khi đi đường. Cơ quan lương thực
phải bố trí mạng lưới bán lương thực phải bố trí mạng lưới bán lương thực thuận
tiện và bán kịp thời ngay cho dân chuyển đến vùng kinh tế mới. Hợp tác xã ở nơi
cũ phải chuyển phần lương thực của những người đi xây dựng cơ sở mới vào nghĩa
vụ bán lương thực cho Nhà nước.
Các hợp tác xã được giao đất,
giao rừng để sản xuất nông, lâm nghiệp kể cả các hợp tác xã định canh định cư,
bất kỳ phương hướng sản xuất lấy cây công nghiệp, chăn nuôi hay nghề rừng là
chính, đều phải tận dụng đất đai để sản xuất các loại lương thực, thực phẩm đến
mức tối đa tùy theo điều kiện thực tế của từng nơi.
Phần còn thiếu, trong từng thời
gian sẽ được Nhà nước cân đối bán thêm đảm bảo mức ăn cho lao động theo ngành
nghề sản xuất và khối lượng sản phẩm làm ra và những người ăn theo trong gia
đình.
Những hợp tác xã thiếu lương thực
được Nhà nước bán thêm, thì 3 năm đầu được ghi vào kế hoạch lương thực của kinh
tế mới, hoặc kế hoạch lương thực cho các ngành nghề trồng cây công nghiệp, trồng
rừng…
3. Khi cơ sở mới đã được
chuẩn bị có điều kiện đưa cả hộ gia đình cùng đi theo, thì việc thanh lý tài sản
phải được giải quyết thỏa đáng theo tinh thần đoàn kết tương trợ trong nội bộ
nhân dân, người ở lại chia sẻ giúp đỡ với người ra đi.
Trường hợp trong nhân dân không
thể giải quyết được, thì hợp tác xã có trách nhiệm đứng ra thu xếp, nếu hợp tác
xã đã cố gắng bằng mọi cách để giải quyết (kể cả bỏ vốn của hợp tác xã ra), mà
vẫn không đủ vốn thanh lý cho người đi, thì được ngân hàng xét cho vay với mức
thật cần thiết.
Khi thanh lý tài sản phải lập hội
đồng hóa giá có đại diện của Ủy ban nhân dân xã, hợp tác xã, hộ đi, ngân hàng, tài
chính để tránh tình trạng nâng giá quá cao hoặc ép giá. Chỉ giải quyết những
tài sản cố định như nhà cửa, chuồng trại chăn nuôi, sân gạch, giếng nước,v.v…
còn đồ đạc, dụng cụ trong gia đình, cây cối trong vườn, hoa màu trên đất 5% thì
nhân dân tự giải quyết.
4. Những người đi xây dựng
vùng kinh tế mới, nếu vào làm công nhân của nông trường, lâm trường, thì được
tuyển dụng theo chế độ hiện hành; khi nông trường, lâm trường đã tương đối ổn định,
những người trong gia đình cũng đi theo thì sẽ tổ chức thành những khu dân cư
theo quy hoạch của nông trường, lâm trường để làm hợp đồng thường xuyên, hợp đồng
thời vụ hay làm gia công cho nông trường, lâm trường, làm các ngành nghề thủ
công, dịch vụ, phục vụ cho nhu cầu trong vùng.
Nhân dân sẵn có ở vùng thì tùy
điều kiện cụ thể có thể tổ chức thành hợp tác xã sản xuất theo phương hướng
chung của vùng, hoặc thu hút vào làm công nhân của nông trường, lâm trường những
lao động đủ tiêu chuẩn, số còn lại tham gia vào khu dân cư.
IV. TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC TỈNH ĐỐI VỚI VIỆC CHUYỂN DÂN ĐI KHAI HOANG, MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN XUẤT
Các tỉnh, thành phố có trách nhiệm
trực tiếp trong việc vận động nhân dân đi khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới.
Theo kế hoạch mà tỉnh có dân đi và
tỉnh đón dân đến đã thỏa thuận với nhau và được trung ương duyệt, hai tỉnh đều
chịu trách nhiệm trước trung ương từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn thành kế hoạch
chuyển dân đi, tổ chức việc tiếp nhận, xây dựng được cơ sở mới cho sản xuất và
đời sống. Cần chú ý sự phối hợp rất chặt chẽ giữa hai tỉnh có người đi và có
người đến với các ngành có liên quan, có lịch di chuyển và đón tiếp cho thật ăn
khớp. Cụ thể là:
a) Tỉnh có dân đi có nhiệm vụ:
- Cử cán bộ tham gia với tỉnh
đón dân trong việc quy hoạch vùng và quy hoạch thiết kế hợp tác xã, chuẩn bị điều
kiện để đưa dân đến;
- Tổ chức đưa dân đi, có đủ bộ
khung cho bộ máy tổ chức lãnh đạo và quản lý hợp tác xã (đối với các tỉnh phía
Bắc).
- Tách một số cán bộ lãnh đạo,
cán bộ kinh tế kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, cán bộ xã, cán bộ các đoàn thể
(nông hội, thanh niên, phụ nữ…) tăng cường cho tình bạn;
- Tổ chức lao động hỗ trợ và lao
động chuyên trách đi xây dựng cơ sở ban đầu ở vùng kinh tế mới;
- Thường xuyên liên hệ chặt chẽ
và tham gia góp sức cùng tỉnh bạn kịp thời giải quyết những vấn đề nẩy sinh
trong quá trình đưa đón dân và xây dựng cơ sở mới.
b) Tỉnh đón dân đến có nhiệm
vụ:
- Tiến hành quy hoạch vùng và
quy hoạch xí nghiệp và có kế hoạch từng bước xây dựng vùng kinh tế mới; tập
trung sức xây dựng những cơ sở hạ tầng cần thiết phục vụ cho sản xuất và đời sống
của nhân dân trong vùng, trước hết là thủy lợi;
- Chuẩn bị những điều kiện ban đầu
cho việc đón dân và tổ chức đón nhận dân; tiến hành xây dựng hợp tác xã và quản
lý tốt hợp tác xã ở vùng kinh tế mới.
- Vận động nhân dân địa phương
tích cực giúp đỡ người mới đến trong việc xây dựng cơ sở vật chất ban đầu;
- Tập trung lãnh đạo, xác định
rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xây dựng vùng kinh tế mới,
kiên quyết điều động một số cán bộ có đủ năng lực cần thiết và sử dụng tốt số
cán bộ của các tỉnh bạn tăng cường để phục vụ cho công tác này.