BỘ NÔNG NGHIỆP-BỘ
LÂM NGHIỆP
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 20-TT/LB
|
Hà Nội, ngày 11
tháng 05 năm 1978
|
HƯỚNG DẪN VIỆC GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG ĐỂ HỢP TÁC XÃ PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ LÂM NGHIỆP THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 272-CP NGÀY 03-10-1977 CỦA
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Thực hiện Quyết định số 272-CP
ngày 03-10-1977 của Hội đồng Chính phủ ban hành chính sách đối với hợp tác xã mở
rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện
định canh định cư và thực hiện Chỉ thị số 257-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng và giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh
doanh, Bộ Lâm nghiệp và Bộ Nông nghiệp hướng dẫn thực hiện việc giao đất, giao
rừng để hợp tác xã phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp được ghi trong
văn bản nói trên như sau.
I. NGUYÊN TẮC
GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG ĐỂ HỢP TÁC XÃ KINH DOANH
1. Đất và rừng trên lãnh thổ cả
nước đều là tài sản chung của toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, không một
đơn vị hoặc cá nhân nào được chiếm làm của riêng. Chỉ Nhà nước mới có thẩm quyền
giao đất, giao rừng cho các đơn vị quốc doanh và các hợp tác xã quản lý, sử dụng
theo đúng quy hoạch, kế hoạch, quy trình kỹ thuật và chấp hành đúng chính sách,
luật lệ của Nhà nước.
2. Đất và rừng giao cho hợp tác
xã phải dựa trên cơ sở đã được phân vùng, quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp
và phương hướng sản xuất của từng vùng đã được Ủy ban nhân dân tỉnh duyệt, Ủy
ban nhân dân huyện tuỳ theo điều kiện đất và rừng của địa phương và tuỳ theo khả
năng lao động của từng hợp tác xã để xác định diện tích đất và rừng giao cho hợp
tác xã. Những nơi chưa có quy hoạch hoặc quy hoạch chưa được duyệt, nhưng do
yêu cầu cấp thiết thì Ủy ban nhân dân tỉnh tạm thời xác định địa bàn, nhiệm vụ,
loại cây trồng, biện pháp kỹ thuật và thông báo cho Ủy ban nhân dân huyện giao
đất, giao rừng cho hợp tác xã trồng rừng, sản xuất lương thực, khai thác và bảo
vệ rừng.
Phần đất giao cho hộ xã viên làm
nhà và làm kinh tế phụ cũng dựa trên cơ sở quy hoạch trong khu dân cư và được
giao chung cho hợp tác xã để hợp tác xã phân phối lại cho các hộ xã viên.
3. Những hợp tác xã hiện có tại
chỗ, hợp tác xã của đồng bào định canh định cư, hợp tác xã của đồng bào ở vùng
khác chuyển đến vùng kinh tế mới và những tổ chức liên doanh của các hợp tác xã
nhỏ có đủ các điều kiện sau đây thì được giao đất, giao rừng để quản lý, kinh
doanh:
- Có đầy đủ tư cách pháp nhân;
- Có quy hoạch sản xuất cụ thể
và phương hướng sản xuất rõ ràng;
- Có tổ chức và phân công lao động
để làm nông nghiệp, lâm nghiệp;
- Tự nguyện làm đơn xin nhận đất,
nhận rừng.
4. Hợp tác xã nhận đất, nhận rừng
phải đưa hết đất và rừng đã nhận vào sản xuất theo đúng quy hoạch, kế hoạch,
quy trình kỹ thuật và chấp hành đúng chính sách, luật lệ của Nhà nước. Đất lâm
nghiệp để làm lâm nghiệp, đất nông nghiệp để làm nông nghiệp, không được sử dụng
tuỳ tiện hoặc bỏ hoang. Rừng được giao ở bất kỳ độ dốc nào, hợp tác xã đều phải
quản lý, bảo vệ theo pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng, không được phá rừng
hoặc khai thác tuỳ tiện.
5. Những sản phẩm nông, lâm nghiệp
do hợp tác xã làm ra theo quy hoạch, kế hoạch trên đất và rừng được giao phải
bán cho Nhà nước theo hợp đồng với giá do Nhà nước quy định.
II. LOẠI ĐẤT,
LOẠI RỪNG VÀ TIÊU CHUẨN GIAO CHO HỢP TÁC XÃ
1. Loại đất, loại rừng giao cho
hợp tác xã
Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp
và rừng cây thường xen kẽ với nhau rất phức tạp. Nếu phạm vi hoạt động của hợp
tác xã có cả đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và rừng cây thì sẽ giao cả hai loại
đất và rừng ở những nơi chưa sử dụng đến cho hợp tác xã mở rộng diện tích kinh
doanh theo quy hoạch. Đất nông nghiệp giao để hợp tác xã trồng cây lương thực,
cây công nghiệp và làm đồng cỏ chăn nuôi. Đất lâm nghiệp để hợp tác xã trồng
các loại rừng lấy gỗ lớn, trụ mỏ, nguyên liệu giấy, sợi, đặc sản, tre luồng… Rừng
gỗ, tre nứa non tái sinh, rừng mới trồng để hợp tác xã chăm sóc, tu bổ. Rừng
còn sản lượng khai thác được để hợp tác xã khai thác gỗ, tre nứa theo kế hoạch
Nhà nước giao.
Các nông, lâm trường đã có trước
đây, nay sau khi quy hoạch lại, xét thấy hợp lý thì có thể giao một phần hoặc
toàn bộ đất và rừng (kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng) do nông lâm trường đang
trực tiếp kinh doanh cho các hợp tác xã kinh doanh. Các nông, lâm trường sẽ đến
sản xuất kinh doanh một nơi khác theo quy hoạch mới. Những kết quả sản xuất và
cơ sở vật chất kỹ thuật của nông, lâm trường có trên diện tích đó, tuỳ hoàn cảnh
cụ thể mà quy định chuyển giao cho hợp tác xã sau khi đã được kiểm kê, đánh
giá.
Những đất và rừng lâu nay do cá
nhân bao chiếm, thì do Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện có chủ trương, biện pháp cụ
thể để tập thể hóa trên nguyên tắc vừa đảm bảo sự quản lý của hợp tác xã, vừa
giải quyết thoả đáng quyền lợi cho cá nhân. Diện tích đất và rừng đã tập thể
hoá được tính vào tiêu chuẩn để giao cho hợp tác xã.
Đất phân tán lẻ tẻ như gò, đống,
cồn, bãi… không thành quy hoạch tập trung, thuộc phạm vi hợp tác xã nào thì do
hợp tác xã đó sử dụng vào sản xuất hoặc vận động nhân dân trồng cây. Đất này
không tính vào diện tích giao cho hợp tác xã.
2. Loại đất, loại rừng không
giao cho hợp tác xã
Không giao cho hợp tác xã các
khu rừng cấm, rừng phòng hộ và các khu đất, khu rừng đã giao cho các xí nghiệp,
cơ quan, đơn vị khác sử dụng.
Diện tích đất và rừng đã quy hoạch
cho sản xuất lâm nghiệp nhưng còn dự trữ, chưa giao cho đơn vị nào sử dụng thì Ủy
ban nhân dân tỉnh, huyện, xã tổ chức quản lý, bảo vệ theo phạm vi lãnh thổ.
Sau khi đã có lâm phận ổn định,
nông phận ổn định, nếu còn nhu cầu cần giao đất, giao rừng cho hợp tác xã thì đất
và rừng thuộc ngành vào, ngành đó có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân địa
phương tiến hành giao.
3. Tiêu chuẩn đất và rừng giao
cho hợp tác xã
Quyết định số 272-CP của Hội đồng
Chính phủ quy định: “Mỗi hợp tác xã được giao một diện tích đất hoặc diện tích
rừng ở gần hợp tác xã để phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp tương ứng với số
lao động có trong thời gian 5 năm kể từ ngày đăng ký xin đất dùng vào sản xuất,
theo tiêu chuẩn một lao động nông lâm nghiệp từ 1 hécta đến 4 hécta, tùy theo từng
loại cây trồng và sản phẩm làm ra đòi hỏi nhiều hay ít công lao động để sản xuất
thâm canh và chế biến”.
Ở mỗi địa phương, mỗi vùng phải
căn cứ vào tình hình cụ thể về đất và rừng hiện có; căn cứ vào quy trình kinh
doanh, định mức kinh tế kỹ thuật, định mức lao động đối với từng loại cây, loại
rừng, loại đất; căn cứ vào điều kiện tự nhiên và trình độ, khả năng mọi mặt của
hợp tác xã, đặc biệt là số lao động của mỗi ngành nghề có đến 5 năm sau, được
phân phối cho các khâu cụ thể trong sản xuất nông lâm nghiệp… để xác định tiêu
chuẩn đất và rừng giao cho từng hợp tác xã được hợp lý. Tránh tình trạng ước
tính chung chung để sau khi hợp tác xã nhận đất, nhận rừng không có lao động sản
xuất thâm canh, chuyên canh và không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch của Nhà
nước giao.
Đối với sản xuất lâm nghiệp, cây
có chu kỳ sản xuất dài như thông, sa mộc, mỡ, bạch đàn để lấy gỗ lớn có thể
giao cho từ 3 đến 4 hécta cho mỗi lao động; cây có chu kỳ sản xuất ngắn như
tre, bương, xoan, bồ đề để lấy nguyên liệu giấy, sợi có thể giao từ 2 đến 3
hécta cho mỗi lao động. Nơi nào dưới tán rừng có khả năng kinh doanh đặc sản
như sa nhân, ba kích, củ nâu, củ mài, song, mây,… thì diện tích đất và rừng có
thể giao ít hơn những nơi không có khả năng này.
Dưới đây là tiêu chuẩn cụ thể về
đất và rừng giao cho hợp tác xã:
Loại
đất, loại rừng
|
Diện
tích giao cho mỗi lao động (hécta)
|
- Đất để trồng cây lương thực,
hoa màu
|
Từ
1 đến 2
|
- Đất để trồng cây công nghiệp
|
Từ
1 đến 2
|
- Đất đồng cỏ tự nhiên để chăn
nuôi
|
3
|
- Đất trồng rừng
|
Từ
2 đến 4
|
- Rừng trồng
|
4
|
- Rừng non, rừng tu bổ
|
4
|
- Rừng tre nứa để khai thác
|
3
|
- Rừng gỗ để khai thác
|
4
|
4. Giao đất để hộ xã viên làm
nhà ở và làm kinh tế phụ
Theo quy định của Chính phủ, mỗi
hộ xã viên được cấp từ 200 m2 đến 300 m2 đất để làm nhà ở
và từ 500 m2 đến 700 m2 đất để làm kinh tế phụ. Tùy từng
địa phương, từng vùng, căn cứ vào khả năng đất đai trong phạm vi hợp tác xã có
nhiều hay ít, tốt hay xấu, hộ nhiều hay ít người, tập quán sinh hoạt của từng
dân tộc… mà vận dụng tiêu chuẩn để giao một cách hợp lý, nhưng không được vượt
quá tiêu chuẩn quy định. Đất giao cho hộ xã viên làm kinh tế phụ có thể ở cùng
khu vực đất làm nhà ở, cũng có thể ở ngoài khu vực đất làm nhà, nhưng đều thuộc
vùng đã quy hoạch tập trung theo từng tổ, đội sản xuất để tiện cho sản xuất và
sinh hoạt. Đất giao cho hộ xã viên làm kinh tế phụ phải được sử dụng tốt theo
phương hướng chung của hợp tác xã để tự túc một phần lương thực, nguyên liệu
làm nhà, và củi đun, không được sử dụng đất này tuỳ tiện hoặc bỏ hoang làm ảnh
hưởng đến kế hoạch phát triển của kinh tế tập thể.
Tiêu chuẩn quy định trên đây áp
dụng cho tất cả các vùng khác nhau, nhưng để tránh xáo trộn ảnh hưởng đến sản
xuất và đời sống, cần tiến hành như sau:
- Đối với những hộ xã viên của hợp
tác xã đến xây dựng vùng kinh tế mới, những hộ mới định canh định cư thì phân bổ
ngay theo quy hoạch dân cư.
- Đối với những hộ xã viên của hợp
tác xã hiện có tại chỗ thì căn cứ vào quy hoạch dân cư được duyệt mà tiến hành
điều chỉnh từng bước theo tiến độ tổ chức lại đất đai và làng bản.
III. THẨM QUYỀN,
TỔ CHỨC VÀ THỦ TỤC GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG CHO HỢP TÁC XÃ KINH DOANH
1. Về thẩm quyền:
Chỉ có chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện mới có thẩm quyền ký quyết định giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh
doanh theo quy định của Chính phủ.
2. Về tổ chức:
Ở tỉnh, thành lập ban giao đất,
giao rừng, do phó chủ tịch phụ trách nông lâm làm trưởng ban; trưởng ty lâm
nghiệp, trưởng ty nông nghiệp và chi cục trưởng kiểm lâm nhân dân làm phó ban,
chi cục trưởng kiểm lâm nhân dân làm phó ban thường trực.
Ở các huyện thành lập ban giao đất,
giao rừng do phó chủ tịch huyện làm trưởng ban; trưởng ban nông lâm nghiệp huyện
và hạt trưởng kiểm lâm nhân dân làm phó ban; hạt trưởng kiểm lâm nhân dân làm
phó ban thường trực.
Tỉnh và huyện huy động cán bộ
lâm nghiệp, nông nghiệp, kiểm lâm nhân dân tổ chức thành từng đoàn dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của ban giao đất, giao rừng, xuống các huyện, các xã phối hợp với
cán bộ cơ sở thực hiện việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã.
3. Về thủ tục:
a) Ủy ban nhân dân huyện phải nắm
vững quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp và phương hướng sản xuất của từng vùng
đã được Ủy ban nhân dân tỉnh duyệt hoặc văn bản xác nhận của Ủy ban nhân dân tỉnh
về loại đất, loại rừng được giao cho hợp tác xã (nếu chưa có quy hoạch), nắm vững
nhu cầu về đất và rừng của hợp tác xã để dự kiến diện tích giao cho hợp tác xã.
b) Ban quản trị hợp tác xã căn cứ
vào khả năng lao động của hợp tác xã (gồm lao động hiện có và lao động bổ sung
theo quy hoạch) đã được xác định và phân bổ cho từng ngành nghề, làm đơn xin nhận
đất, nhận rừng để kinh doanh nông, lâm nghiệp, làm nhà ở và làm kinh tế phụ cho
các hộ xã viên, đưa ra đại hội xã viên thảo luận và thông qua. Đơn của hợp tác
xã phải có ý kiến xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, kèm theo phương án quy hoạch,
kế hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp để gửi đến Ủy ban nhân dân huyện.
Những hợp tác xã miền xuôi đến địa
điểm mới, chưa có điều kiện mở đại hội xã viên thì ban quản trị lâm thời của hợp
tác xã căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch xây dựng hợp tác xã đến nắm định hình để
làm đơn theo thủ tục trên đây. (Có mẫu đơn kèm theo thông tư). ([1][1])
c) Sau khi nhận được đơn của hợp
tác xã, trong phạm vi 15 ngày, Ủy ban nhân dân huyện tổ chức xem xét, kiểm tra
và ký quyết định giao đất, giao rừng cho hợp tác xã.
Ban giao đất, giao rừng giúp Ủy
ban nhân dân huyện bàn giao đất và rừng cho hợp tác xã trên sổ sách, giấy tờ, bản
đồ và trên thực địa có xác định ranh giới rõ ràng và cắm biển mốc. Lập biên bản
giao, nhận có đủ chữ ký của bên giao, bên nhận và đại diện của Ủy ban nhân dân
xã chứng kiến. (Có mẫu quyết định và biên bản kèm theo thông tư).(1)
d) Những nơi có diện tích đất và
rừng của nông trường, lâm trường chuyển giao cho hợp tác xã thì sau khi có quyết
định của Ủy ban nhân dân huyện, phải tổ chức hội đồng bàn giao gồm đại diện Ủy
ban nhân dân huyện. Ủy ban nhân dân xã sở tại, Ban nông lâm huyện, hạt kiểm lâm
nhân dân, giám đốc nông trường hoặc lâm trường, chủ nhiệm hợp tác xã. Hội đồng
này có trách nhiệm kiểm kê, đánh giá tài sản và lập biên bản giao, nhận.
đ) Sau khi nhận đất, nhận rừng,
hợp tác xã làm thủ tục đăng ký sử dụng đất và rừng với ban nông lâm huyện và hạt
kiểm lâm nhân dân. Phần đất làm nhà và làm kinh tế phụ của hộ xã viên do hợp
tác xã phân phối lại cho từng hộ sau khi được Ủy ban nhân dân xã thông qua dự
kiến phân phối của ban quản trị hợp tác xã.
IV. NGHĨA VỤ
VÀ QUYỀN LỢI CỦA HỢP TÁC XÃ
1. Hợp tác xã nhận đất, nhận rừng
của Nhà nước để kinh doanh có nghĩa vụ:
a) Phải tìm mọi biện pháp, huy động
mọi khả năng của hợp tác xã để đưa nhanh, đưa hết diện tích đất và rừng đã nhận
vào kinh doanh theo đúng quy hoạch, kế hoạch, quy trình kỹ thuật, chế độ
chính sách và luật lệ của Nhà nước, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, đồng thời phải
quản lý, bảo vệ đất đai và rừng cây được tốt, không để rừng bị phá hoại, đất bị
thoái hoá.
b) Quản lý, sử dụng vốn được vay
hoặc vốn được trợ cấp để kinh doanh nông, lâm nghiệp vào đúng mục đích và chấp
hành đúng chế độ, chính sách về tài chính do Nhà nước quy định.
c) Tuân theo sự hướng dẫn về
nghiệp vụ, kỹ thuật của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và các ngành có liên quan
khác.
d) Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bán
nông, lâm sản cho Nhà nước theo giá quy định.
đ) Báo cáo định kỳ lên Ủy ban
nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân xã về tình hình quản lý, bảo vệ, sử dụng đất
và rừng được giao.
2. Hợp tác xã nhận đất, nhận rừng
của Nhà nước để kinh doanh có những quyền lợi:
a) Được Nhà nước giao đất, giao
rừng lâu dài để sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp đặc biệt, Nhà nước phải
thu lại một phần hay toàn bộ đất và rừng đã giao cho hợp tác xã để sử dụng vào
mục đích công cộng khác, thì hợp tác xã sẽ được giao một diện tích tương đương
khác và được đền bù thích đáng những công trình, hoa màu do hợp tác xã đã làm
ra trên diện tích thu lại.
b) Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ hợp
tác xã về các mặt như cho vay vốn, cung cấp vật tư, bồi dưỡng cán bộ, thu mua sản
phẩm do hợp tác xã làm ra.
c) Hợp tác xã được sử dụng
một phần gỗ và lâm sản khác do hợp tác xã làm ra trên diện tích đất rừng đã
giao cho hợp tác xã để sử dụng vào các công trình công cộng, sau khi được Ủy
ban kế hoạch tỉnh xét duyệt, phân bổ. Ngoài ra hợp tác xã và xã viên được tận dụng
cành ngọn, lấy củi khô để dùng cho tập thể và cho gia đình. Việc sử dụng gỗ và
lâm sản khác của hợp tác xã và xã viên do hạt kiểm lâm nhân dân hướng dẫn.
d) Ngoài việc kinh doanh lâm
nghiệp trên đất và rừng được giao, hợp tác xã được tận dụng đất để kinh doanh
các nông, lâm sản phụ dưới tán rừng hoặc xen kẽ với cây rừng, nhưng không được
làm trở ngại đến việc thực hiện kế hoạch sản xuất chính của hợp tác xã và không
gây thiệt hại đến rừng hoặc cây trồng chính.
đ) Hợp tác xã được quyền quản lý
nghiệp vụ sản xuất kinh doanh đối với diện tích đất và rừng được giao. Nhà nước
bảo đảm quyền kinh doanh của hợp tác xã.
Hợp tác xã thực hiện các quyền lợi
trên đây theo điều lệ hợp tác xã, chế độ chính sách và pháp luật của Nhà nước
dưới sự hướng dẫn, kiểm tra của Ủy ban nhân dân xã, huyện, trực tiếp là ban
nông lâm nghiệp huyện và hạt kiểm lâm nhân dân.
V. TRÁCH NHIỆM
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC CẤP VÀ CỦA HAI NGÀNH LÂM NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP
1. Trách nhiệm của Ủy ban nhân
dân các cấp
Tổ chức thực hiện giao đất, giao
rừng cho hợp tác xã mở rộng diện tích phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp là
trách nhiệm chính của Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương, trong đó Ủy
ban nhân dân huyện là cấp trực tiếp. Cụ thể là:
- Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng
chính sách giao đất, giao rừng trong cán bộ, nhân dân để mọi người hiểu rõ mục
đích, ý nghĩa, nội dung của chính sách và chấp hành cho đúng.
- Ủy ban nhân dân tỉnh căn cứ
vào quy hoạch mở rộng diện tích phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và vốn đầu
tư đã được Chính phủ duyệt, lập kế hoạch cụ thể và phân bổ chỉ tiêu cho từng
huyện thực hiện giao đất, giao rừng.
- Ủy ban nhân dân huyện phải tổ
chức thực hiện giao đất, giao rừng cho các hợp tác xã trong huyện và quản lý chặt
chẽ việc mở rộng diện tích phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp để các hợp tác
xã sử dụng đất, rừng được giao theo đúng quy hoạch, kế hoạch, quy trình kỹ thuật
và chính sách, luật lệ của Nhà nước, đảm bảo đất và rừng mới nhận được đưa hết
vào sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Ủy ban nhân dân huyện phải có
kế hoạch giúp hợp tác xã tổ chức lại sản xuất, bồi dưỡng cán bộ quản lý cho hợp
tác xã để hợp tác xã đảm đương được nhiệm vụ kinh doanh nông, lâm nghiệp.
- Ủy ban nhân dân xã có trách
nhiệm cùng cán bộ giao đất, giao rừng của huyện và ban quản trị hợp tác xã thực
hiện nhiệm vụ giao đất, giao rừng trong xã.
2. Trách nhiệm của ngành lâm
nghiệp, ngành nông nghiệp.
Các cơ quan lâm nghiệp ở tỉnh,
huyện có trách nhiệm chính và phối hợp chặt chẽ với cơ quan nông nghiệp cùng cấp
dưới sự chỉ đạo thống nhất của ngành từ trung ương, giúp Ủy ban nhân dân các cấp
triển khai thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh doanh.
Trong khi thực hiện nhiệm vụ phải vận dụng đúng nguyên tắc kết hợp quản lý theo
ngành với quản lý theo lãnh thổ. Cụ thể là:
- Nắm vững tình hình đất và rừng
ở địa phương để làm phân vùng, quy hoạch và thiết kế sản xuất nông, lâm nghiệp
từ tỉnh đến huyện, xã. Trên cơ sở quy hoạch nông lâm nghiệp huyện và nhiệm vụ sản
xuất của mỗi ngành đã được xác định ở từng vùng để hướng dẫn hợp tác xã kinh
doanh sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch.
- Ty lâm nghiệp, Ty nông nghiệp,
Chi cục kiểm lâm nhân dân làm tham mưu và trực tiếp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh
chỉ đạo các huyện thực hiện giao đất, giao rừng như xây dựng kế hoạch, xét duyệt
kế hoạch, huy động lực lượng cán bộ giúp huyện làm công tác quy hoạch và giao đất,
giao rừng.
- Ban nông lâm huyện và hạt kiểm
lâm nhân dân, nắm vững yêu cầu về mở rộng diện tích phát triển nông nghiệp, lâm
nghiệp trong huyện và từng hợp tác xã để giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện
giao đất, giao rừng cho từng hợp tác xã và trực tiếp hướng dẫn các hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp theo đúng quy hoạch, kế hoạch.
- Các nông trường, lâm trường quốc
doanh trung ương và địa phương làm trung tâm, nòng cốt đối với hợp tác xã về mặt
khoa học kỹ thuật và trực tiếp giúp đỡ hợp tác xã về kỹ thuật, thiết kế, sản xuất
giống cây, giống con,… khi cần thiết.
Các nông trường, lâm trường phải
huy động cán bộ tham gia công tác giao đất, giao rừng theo yêu cầu của Ủy ban
nhân dân địa phương.
Bộ Lâm nghiệp và Bộ Nông nghiệp
căn cứ vào thông tư này, khi cần thiết có thể ra văn bản hướng dẫn cụ thể những
vấn đề thuộc ngành mình phụ trách, nhằm bảo đảm thực hiện được nhanh, được tốt
chính sách của Chính phủ.
Quá trình thực hiện chính sách
giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh doanh của Chính phủ và thông tư này có
gặp khó khăn gì, các cấp, các ngành cần phản ảnh kịp thời về Bộ Lâm nghiệp và Bộ
Nông nghiệp.
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Ngọc Trìu
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ LÂM NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG
Trần Văn Quế
|
[1][1] Không in các mẫu đơn