ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
853/2007/QĐ-UBND
|
Huế, ngày 02
tháng 4 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN NGĂN NGỪA VÀ GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG
TRẺ EM PHẢI LAO ĐỘNG NẶNG NHỌC, TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỘC HẠI VÀ NGUY HIỂM GIAI ĐOẠN
2006-2010
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Bảo vệ, Chăm sóc
và Giáo dục trẻ em ngày 12 tháng 8 năm 1991;
Căn cứ Quyết định số
19/2004/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em
bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại,
nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt Đề án "Ngăn ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn
2006-2010" (kèm theo Quyết định này).
Điều 2.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường
trực thực hiện Đề án, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với các ngành, các cấp
tổ chức triển khai, kiểm tra thực hiện Đề án.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký.
Điều 4.
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các huyện, thành phố Huế chịu trách nhiệm thi hành quyết định
này./.
|
TM.ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT.CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Ngô Hòa
|
ĐỀ ÁN
"NGĂN NGỪA VÀ GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG TRẺ EM PHẢI LAO ĐỘNG
NẶNG NHỌC, TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỘC HẠI VÀ NGUY HIỂM GIAI ĐOẠN 2006-2010"
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 853/2007/QĐ - UBND ngày 02 tháng 04 năm
2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)
I. THỰC TRẠNG
VẤN ĐỀ TRẺ EM LAO ĐỘNG NẶNG NHỌC, TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỘC HẠI, NGUY HIỂM.
Ở tỉnh ta chưa có một cuộc điều
tra chính thức về thực trạng trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế, trong đó có
trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm. Theo số liệu
của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh báo cáo
số trẻ em dưới 16 tuổi có nguy
cơ đi lang thang tính đến cuối quý 1 năm 2006 là: 2.298, trong đó số trẻ em
lang thang hiện có trên địa bàn tỉnh là 573, chủ yếu ở thành phố Huế, trong số
này có 328 em bỏ nhà đi lang thang.
Tuy chưa có số liệu khảo sát cụ
thể về tình hình làm việc của các trẻ em, nhưng qua thực tế có nhiều trẻ em phải
làm thuê và tự kiếm sống ở một số ngành như: khai thác vật liệu xây dựng, dịch
vụ buôn bán ở các quán ăn nhà hàng tư nhân, các cơ sở chế biến thực phẩm, đi ở
giúp việc gia đình, bán vé số ...
Một trong những nguyên nhân của
tình trạng trên là gia đình các em thuộc diện hộ nghèo, gia đình bất hạnh. Bên
cạnh đó nhận thức và hiểu biết của các cấp chính quyền, của người lao động, gia
đình và bản thân trẻ em về vấn đề lao động chưa thành niên và pháp luật có liên
quan đã làm giảm hiệu quả của công tác ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm.
Trong thời gian qua, mặc dù Nhà
nước đã đầu tư nguồn lực cho Chương trình bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, nhưng đầu tư trực tiếp cho các hoạt động ngăn ngừa và giải quyết
tình trạng trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm
còn rất hạn chế về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó do cơ chế phân cấp quản
lý ngân sách, nên không có nguồn kinh phí riêng để thực hiện. Cán bộ chuyên môn
và thanh tra về lao động chưa thành niên ở các cấp vẫn còn thiếu, chưa có mạng
lưới cộng tác viên và tình nguyện viên ở cơ sở để hỗ trợ cho việc kiểm tra và
giám sát tình hình lao động chưa thành niên, trong đó có thực trạng trẻ em phải
lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm.
II. MỤC TIÊU
CỦA ĐỀ ÁN
1. Mục tiêu tổng quát:
Ngăn ngừa, giảm dần và tiến tới
giảm cơ bản vào năm 2010 số lượng trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện
độc hại, nguy hiểm, tạo điều kiện để những trẻ em này được bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục và phát triển toàn diện về mọi mặt, có cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn.
2. Mục tiêu cụ thể:
2.1. Ngăn ngừa tình trạng trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm.
2.2. Giải quyết tình trạng trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm để đến năm 2010
giảm được 90% số trẻ em này.
2.3. Nâng cao năng lực quản lý cho
cán bộ làm công tác giải quyết tình trạng trẻ em phải lao động nặng nhọc.
III. ĐỐI TƯỢNG
CỦA ĐỀ ÁN
- Trẻ em nói chung, đặc biệt là
những trẻ em đang phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm
và những trẻ em thuộc nhóm đối tượng các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn.
- Cha mẹ và gia đình của trẻ em
và những người sử dụng lao động.
IV. CÁC GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1. Trên cơ sở hệ thống chính
sách, pháp luật cần đẩy mạnh các hoạt động xã hội hoá trong công tác bảo vệ trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại nguy hiểm.
2. Tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp đối
với công tác này.
3. Tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến và vận động mọi tầng lớp nhân dân nghiêm túc chấp hành và thực
hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và
giải quyết tình trạng trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện nguy hiểm,
độc hại.
4. Phát huy và nâng cao chất lượng
dịch vụ trợ giúp trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy
hiểm và thông qua mô hình can thiệp ở địa phương và thiết lập mạng lưới trợ
giúp tại cộng đồng.
5. Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động ngăn ngừa và giải quyết
tình trạng trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại nguy hiểm.
V. CÁC HOẠT
ĐỘNG CỤ THỂ.
1. Điều tra, khảo sát đánh giá
tình hình lao động trẻ em (lao động chưa thành niên).
2. Khảo sát phân loại và lập hồ
sơ trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm theo theo
loại hình độ tuổi và giới tính.
3. Xác định các vùng, địa bàn
trọng điểm về trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm
thông qua kết quả khảo sát, để thực hiện các mô hình can thiệp giúp trẻ em ra
khỏi môi trường đang làm việc.
4. Phối hợp với các cơ quan y tế
địa phương tổ chức khám sức khoẻ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp.
5. Phối hợp với chính quyền địa
phương và ngành giáo dục và đào tạo nghiên cứu, xây dựng mô hình giáo dục và
hoà nhập đối với trẻ em phải bỏ học do lao động quá sớm kết hợp với hỗ trợ học
nghề.
6. Phối hợp với chính quyền và
các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương để xây dựng và thiết lập mô hình tư
vấn cho các bậc cha mẹ về chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề, tạo việc làm và thu nhập.
7. Tổ chức kiểm tra, thanh tra
liên ngành giữa ngành Lao động - TB&XH với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ
em về tình hình trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại nguy hiểm.
VI. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Các giai đoạn thực hiện đề
án:
1.1. Giai đoạn 1 từ tháng 7 năm
2006 đến tháng 12 năm 2007: Tập trung vào việc khảo sát, đánh giá thực trạng trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm. Đồng thời, tiến
hành kiểm tra, thanh tra liên ngành về tình hình trẻ em phải lao động nặng nhọc,
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm. Tổ chức sơ kết đánh giá kết quả của giai đoạn
này để rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
1.2. Giai đoạn 2 từ tháng 01
năm 2008 đến tháng 12 năm 2010: Tập trung chủ yếu vào các hoạt động can thiệp
và hỗ trợ trực tiếp nhằm ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em phải lao động
nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm. Phối hợp với chính quyền và các
tổ chức chính trị xã hội ở địa phương tạo điều kiện cho các cháu được học hành
và xây dựng, thiết lập mô hình tư vấn cho các bậc cha mẹ về chuyển đổi cơ cấu
ngành, nghề, tạo việc làm và thu nhập.
2. Trách nhiệm của các
ngành, tổ chức chính trị - xã hội và địa phương trong tổ chức thực hiện:
2.1. Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội: chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các hoạt động,
khảo sát, lập hồ sơ trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại,
nguy hiểm. Phối hợp với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em ở các địa phương để
kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện, định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo
cho Ủy ban nhân dân tỉnh và Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội.
2.2. Uỷ ban Dân số, Gia đình và
Trẻ em có trách nhiệm phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và các
cơ quan có liên quan trong công tác kiểm tra, thanh tra về tình trạng trẻ em phải
lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm.
2.3. Sở Giáo dục và Đào tạo: Phối
hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ
em hỗ trợ các địa phương mở rộng hình thức giáo dục thích hợp nhằm thu hút hầu
hết trẻ em phải làm việc đến lớp, xây dựng và thực hiện các hình thức và biện
pháp giáo dục thích hợp nhằm thu hút học sinh lưu ban, bỏ học, học sinh cá biệt
được trở lại học tập và có điều kiện phát triển lành mạnh; đẩy mạnh hoạt động
hướng nghiệp trong nhà trường.
2.4. Uỷ ban nhân dân các huyện,
thành phố Huế: Cần lồng ghép các hoạt động của kế hoạch này với chương trình
khác có liên quan trong phạm vi địa phương mình trong mục tiêu của các chương
trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm, phòng chống HIV/AIDS, phòng
chống ma tuý. Đồng thời chỉ đạo các cơ quan phải nắm vững tình hình trẻ em phải
lao động nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại.
2.5. Đối với các tổ chức chính
trị - xã hội: Phối hợp với các cấp chính quyền trong việc vận động giáo dục hội
viên của mình tích cực tham gia công tác bảo vệ trẻ em, triển khai kế hoạch
ngăn ngừa tình trạng lạm dụng sức lao động của trẻ em, đồng thời nâng cao nhận
thức của họ về ảnh hưởng tiêu cực lâu dài của việc sử dụng trẻ lao động trẻ em.
Các ban, ngành, tổ chức chính
trị- xã hội và các huyện, Thành phố Huế thực hiện báo cáo định kỳ (6 tháng, 1
năm) và báo cáo đột xuất về tình hình thực hiện đề án thuộc lĩnh vực của ngành về
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chịu
trách nhiệm tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội về tình hình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em phải lao động nặng
nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm./.