Quyết định 26/2003/QĐ-UB Quy định tạm thời về tiêu chuẩn làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Quảng Nam do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành

Số hiệu 26/2003/QĐ-UB
Ngày ban hành 20/03/2003
Ngày có hiệu lực 20/03/2003
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Quảng Nam
Người ký Lê Minh Ánh
Lĩnh vực Doanh nghiệp

UỶ BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 26/2003/QĐ-UB

Tam Kỳ, ngày 20 tháng 3 năm 2003

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ BAN HÀNH QUY ĐỊNH TẠM THỜI TIÊU CHUẨN LÀNG NGHỀ CN-TTCN TỈNH QUẢNG NAM

- Căn cứ Lụât tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi), ngày 21/06/1994;
- Căn cứ Chương trình hành động số 08/CTr /TU ngày 30/8/2002 của Tỉnh ủy Quảng Nam; Chương trình của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX) về “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2001-2010”;
- Xét đề nghị của Sở Công nghiệp Quảng Nam tại Tờ trình số 167/TT-CN ngày 17 tháng 3 năm 2003;

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1: Nay ban hành kèm theo Quyết định này “Quy định tạm thời về tiêu chuẩn làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Quảng Nam ”.

Điều 2: Giao Giám đốc Sở Công nghiệp chủ trì phối hợp Giám đốc các Sở, Ban ngành có liên quan hướng dẫn UBND các huyện, thị xã phổ biến, tuyên truyền tổ chức thực hiện theo những quy định đã ban hành.

Điều 3: ông Chánh Văn phòng HĐND và UBND tỉnh; Giám đốc các Sở, Ban, ngành; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã và Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký./.

 

 

Nơi nhận:
- Như điều 3
- TVTU, TTHĐND & UBND tỉnh.
- CPVP.
- Lưu VT, TH, KTTH, KTN (K)

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Lê Minh Ánh

 

QUY ĐỊNH

TẠM THỜI VỀ TIÊU CHUẨN LÀNG NGHỀ CÔNG NGHIỆP - TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM
 ( Ban hành kèm theo Quyết định số 26/2003/QĐ-UB ngày 20/3/2003 của UBND tỉnh Quảng Nam)

Nhằm vận động nhân dân ở các địa phương trong tỉnh đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, du nhập các ngành nghề mới, thu hút nghệ nhân, thợ giỏi, giải quyết việc làm cho người lao động ở địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp- nông thôn, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp ( sau đây viết tắt là CN - TTCN ) trên địa bàn.

Việc ban hành Quy định này làm cơ sở để xây dựng, phát triển, xét công nhận làng nghề CN-TTCN trên địa bàn tỉnh, xây dựng mô hình nông thôn mới, phát triển ngành nghề, làng nghề gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển CN-TTC, phát triển hoạt động văn hóa du lịch, giao lưu kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái ở từng vùng trên địa bàn.

Chương I-

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1- Khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống CN-TTCN.

Làng nghề, làng nghề truyền thống CN-TTCN là một cộng đồng dân cư tập trung trên một địa bàn như: thôn, làng, bản, khu phố... ( sau đây gọi chung là làng nghề), mà ở đó dân cư cùng nhau sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm hàng hóa trong đó có ít nhất một sản phẩm đặc trưng, thu hút đại bộ phận lao động hoặc hộ gia đình tham gia, đem lại nguồn thu nhập chính và chiếm tỷ trọng lớn so với thu nhập dân cư tạo ra trên địa bàn của làng hoặc cộng đồng dân cư đó.

Điều 2- Phân loại làng nghề.

2.1- Làng nghề CN-TTCN: là làng mà đại bộ phận lao động hoặc hộ gia đình trong làng cùng tham gia làm nghề CN-TTCN, đem lại nguồn thu chính của người dân trong làng, sản phẩm CN-TTCN của làng có tính chuyên biệt, được nhiều người biết đến.

2.2- Làng nghề truyền thống: là làng nghề CN-TTCN được duy trì và tồn tại qua nhiều thế hệ, tên nghề gắn liền với địa danh của một vùng. Nếu làng nghề nhiều đời, nổi tiếng nhưng nay phát triển chưa ổn định, có khả năng mai một, chưa đạt chuẩn để công nhận làng nghề CN-TTCN và hiện có 5 hộ hay 25 lao động trở lên trong một làng cùng làm nghề truyền thống thì cũng được công nhận là làng nghề truyền thống CN-TTCN để có biện pháp hỗ trợ củng cố, khôi phục ngành nghề.

2.3- Làng nghề mới: là làng có nghề mới được hình thành và phát triển. Nếu chưa đạt chuẩn để công nhận làng nghề CN-TTCN nhưng có từ 15 hộ hay 40 lao động trở lên trong làng cùng làm nghề thì được công nhận là làng nghề mới CN-TTCN để có biện pháp hỗ trợ phát triển ngành nghề.

2.4- Làng có nghề CN-TTCN: là làng có nghề sản xuất CN-TTCN nhưng lao động hoặc số hộ sản xuất CN-TTCN chưa đạt chuẩn để công nhận, đây là đối tượng cần lưu ý động viên, khuyến khích phát triển ngành nghề để trở thành làng nghề CN-TTCN.

Điều 3- Tên và biểu tượng của làng nghề.

Tên gọi của làng nghề được gắn với nghề sản xuất chính và địa danh của làng (Nếu chỉ có 1 nghề tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng; nếu có nhiều nghề phát triển thì tên nghề của làng lấy tên nghề nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt tên nghề gắn với tên làng nghề; nếu nghề hoạt động trên địa bàn từ 2 địa danh trở lên trong cùng một xã thì tên nghề được gắn với tên xã ).

Làng nghề có thể có biểu tượng (Logo) để các thành viên của làng nghề sử dụng nhằm làm tăng thêm vị thế cạnh tranh của sản phẩm làng mình. Biểu tượng của làng nghề phải nêu được đặc trưng, hình tượng hóa nghề nghiệp của làng và tuân thủ các quy định hiện hành về biểu trưng, biểu tượng. Việc đặt tên nghề và xây dựng biểu tượng của làng nghề do nhân dân trong làng bàn bạc thống nhất và UBND xã xem xét, thông qua UBND huyện, thị xã đề nghị UBND tỉnh công nhận.

Điều 4- Phạm vi áp dụng.

[...]