ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2227/QĐ-UBND
|
Bắc Giang, ngày 29 tháng 12 năm 2017
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VỀ VỆ SINH AN
TOÀN THỰC PHẨM TỈNH BẮC GIANG GIAI ĐOẠN 2018 - 2020
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Luật An toàn thực phẩm số
55/2010/QH12 ngày 17/6/2010;
Căn cứ Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày
25/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật An toàn thực
phẩm;
Căn cứ Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm
nhìn 2030,
Căn cứ Kế hoạch số 15-KH/TU ngày 18/01/2012 của Tỉnh ủy Bắc Giang
về việc thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với vấn đề An toàn thực phẩm trong tình hình mới;
Căn cứ Kế hoạch số 959/KH-UBND ngày
15/5/2012 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc thực hiện Chiến lược quốc gia an toàn
thực phẩm giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn 2030;
Xét đề nghị của Sở Y tế tại Tờ
trình số 96/TTr-SYT ngày 30/11/2017,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án Đổi mới công tác tuyên truyền về
vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2018 - 2020 (Có Đề án chi tiết
kèm theo).
Điều 2. Giao Sở Y tế chủ trì tổ chức, triển khai, hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nội dung của Đề án.
Điều 3. Giám đốc các Sở, Thủ trưởng các cơ quan thuộc
UBND tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố và các cơ quan có liên quan chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- TT Tỉnh ủy; TT HĐND tỉnh;
- Ủy ban MTTQ tỉnh
và các Tổ chức CT-XH tỉnh;
- Lưu: VT,
KGVX.
Bản điện tử:
- Chủ tịch và các PCT UBND tỉnh;
- Các sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh;
- Báo Bắc Giang, Đài PT&TH tỉnh;
- UBND các huyện, thành phố;
- Văn phòng UBND tỉnh: LĐVP,
TKCT, TH, KT, NC.
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Ánh Dương
|
ĐỀ ÁN
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TỈNH BẮC
GIANG GIAI ĐOẠN 2018 - 2020
(Kèm theo Quyết định số 2227/QĐ-UBND
ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc
Giang)
Phần thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT VÀ
CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. Sự cần thiết phải
xây dựng Đề án
Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP) giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc các bệnh lây truyền,
phát sinh qua thực phẩm, duy trì phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động,
học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, ổn định trật tự
chính trị xã hội, thể hiện nếp sống văn minh.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế
của nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến
trong nước và nhập từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều. Trong nước, việc lạm dụng các hóa chất độc hại, thuốc kích thích tăng trưởng quá mức,
không được kiểm soát sử dụng trong nuôi trồng, sản xuất, chế biến, bảo quản thực
phẩm; sản phẩm thực phẩm không đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình
công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý; nhãn hàng, quảng cáo không đúng sự thật
là khá phổ biến. Thực phẩm nhập từ nước ngoài, nhất là qua đường tiểu ngạch rất
lớn, hầu hết không được kiểm soát về VSATTP.
Những thiệt hại do không đảm bảo
VSATTP gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, kinh tế và cả trật tự,
an toàn xã hội. Về sức khỏe, ngộ độc thực phẩm, các bệnh cấp và mạn tính nguy
hiểm do thực phẩm bẩn nếu nặng có thể gây tử vong, nhẹ
cũng làm cho suy giảm sức khỏe, đau yếu do bệnh tật thường xuyên, về kinh tế đó
là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe, chi phí do phải chăm sóc người bệnh, mất
thu nhập do phải nghỉ làm... Về trật tự, an toàn xã hội, nó gây bức xúc trong cộng
đồng dân cư, dẫn đến giảm sút lòng tin với hoạt động quản lý, kiểm soát của các
cơ quan chức năng...
Trong hoạt động bảo đảm VSATTP, công
tác tuyên truyền giữ vai trò quan trọng hàng đầu, quyết định vì nó là cơ sở để làm thay đổi nhận thức, hành vi của đông đảo nhân dân, lực lượng quyết định cho thắng lợi của công tác
này. Những năm vừa qua, công tác tuyên truyền về VSATTP của tỉnh ta đã được
tích cực triển khai và đã đạt được những kết quả nhất định. Nhiều nội dung,
hình thức hoạt động tuyên truyền về VSATTP đã được triển khai thực hiện thường
xuyên, nhận thức của cán bộ quản lý, của đông đảo nhân dân về tầm quan trọng của
VSATTP đã có chuyển biến tích cực, dư luận xã hội đã có những
phản ứng khá mạnh mẽ, cảnh giác khi có những hiện tượng, vụ việc VSATTP không bảo
đảm xảy ra. Người dân băn khoăn và cẩn thận hơn khi đi
mua, chế biến và sử dụng thực phẩm. Tuy nhiên công tác này
thời gian qua cũng có những hạn chế, khó khăn nhất định, việc tuyên truyền về
VSATTP còn chưa sâu, chưa sát với thực tế, việc tiếp cận mạnh mẽ đồng bộ ở những
khu vực trọng điểm chưa đủ mạnh để làm chuyển biến từ nhận thức sang hành vi của người dân. Việc phổ biến kiến thức,
phổ biến luật pháp về VSATTP chưa sâu, chưa cụ thể, thể hiện ở việc người dân mới
chỉ quan tâm, bức xúc với từng vụ việc không đảm bảo VSATTP được phát hiện,
trong khi kiến thức về lựa chọn, phân biệt thực phẩm an
toàn và chưa an toàn, kiến thức về quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
VSATTP chưa tốt, nhất là những người trực tiếp nuôi trồng, sản xuất, chế biến
thực phẩm chưa tuân thủ tốt quy định của luật pháp về VSATTP.
Để tiếp tục triển khai thực hiện có
hiệu quả Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn
2030 được ban hành kèm theo Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày
04/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Phải xác định, vấn đề đảm bảo VSATTP là vấn
đề lớn, nan giải, phải làm quyết liệt, đồng bộ và thường
xuyên, có sự tham gia tích cực, phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các
đơn vị chức năng, đặc biệt là sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân đặt dưới
sự lãnh đạo, điều hành trực tiếp của cấp ủy và chính quyền các cấp. Nhiệm vụ đầu
tiên và quan trọng nhất là phải làm tốt công tác tuyên
truyền về VSATTP, tạo ra sự chuyển biến tích cực, rõ rệt trong nhận thức, hành
vi của người tiêu dùng, người nuôi trồng, sản xuất, chế biến thực phẩm và đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý về VSATTP. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự đổi mới
trong công tác tuyên truyền, khắc phục được những hạn chế
của những năm trước đây, phát huy hiệu quả của công tác này, góp phần hoàn
thành các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn
2011-2020 và tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh.
Với quyết tâm tập trung chỉ đạo, đảm
bảo nguồn lực thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về ATTP trong thời gian tới,
UBND tỉnh Bắc Giang xây dựng Đề án Đổi
mới công tác tuyên truyền về vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh Bắc Giang giai đoạn
2018 - 2020 như sau:
II. Căn cứ xây dựng
Đề án
- Luật An toàn thực phẩm số
55/2010/QH12 ngày 17/6/2010;
- Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày
25/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật An toàn thực
phẩm;
- Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày
04/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia An toàn thực
phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030;
- Kế hoạch số 15-KH/TU ngày 18/01/2012 của Tỉnh ủy Bắc Giang về việc thực hiện Chỉ thị số
08-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề An
toàn thực phẩm trong tình hình mới;
- Kế hoạch số 959/KH-UBND ngày 15/5/2012
của UBND tỉnh Bắc Giang về việc thực hiện Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm
giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030.
Phần thứ hai
THỰC TRẠNG CÔNG
TÁC TUYÊN TRUYỀN VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM GIAI ĐOẠN 2012-2017
I. Những kết quả
đã đạt được trong công tác tuyên truyền VSATTP
Những năm vừa qua, công tác tuyên
truyền, giáo dục phổ biến kiến thức, pháp luật về VSATTP
đã được các ngành, các địa phương quan tâm, triển khai thực hiện, đặc biệt
trong các đợt cao điểm như dịp Tết, tháng hành động vì VSATTP, lễ hội, mùa hè, các sự kiện do địa phương tổ chức... Hình thức và nội dung
tuyên truyền ngày càng được mở rộng, phát huy được hiệu quả; công tác tuyên
truyền VSATTP luôn đi đôi, đồng bộ với công tác thanh tra, kiểm tra, tổ chức tập
huấn, hội thảo khoa học; nội dung triển khai học tập, tổ chức thực hiện các văn
bản pháp luật về VSATTP, các kế hoạch của tỉnh được chú trọng, Trung bình mỗi
năm toàn tỉnh tổ chức được khoảng 90 hội nghị, lễ phát động triển khai tháng
hành động về VSATTP với hơn 11.000 lượt người tham gia; tổ chức hàng nghìn cuộc
nói chuyện, thu hút được trên 400.000 lượt người tham dự... Hàng trăm tin, bài
tuyên truyền kiến thức pháp luật, hoạt động về VSATTP trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trong các Bản tin nội bộ để làm tài liệu sinh hoạt tại các
chi, đảng bộ và trong các ngành cũng như trong nhân dân; trình chiếu các tiểu
phẩm tuyên truyền về VSATTP tại các buổi chiếu phim lưu động thuộc các huyện miền
núi...
Kết quả hoạt động
tuyên truyền về VSATTP đã góp phần cải thiện, nâng cao nhận thức, thay đổi hành
vi về VSATTP của người dân và các lực lượng trên địa bàn tỉnh.
Tỷ lệ người có kiến thức, thực hành đúng về VSATTP của các nhóm đối tượng truyền
thông đạt tỷ lệ khá; Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo quản lý có kiến thức, thực hành đúng
về VSATTP đạt 81,4%; tỷ lệ người trực tiếp sản xuất thực phẩm đạt 72,5%; tỷ lệ
người làm kinh doanh thực phẩm đạt 71,4%; tỷ lệ người tiêu dùng thực phẩm đạt
70,8% (Chi tiết tại Phụ lục 1).
II. Tồn tại, hạn
chế trong công tác tuyên truyền VSATTP và nguyên nhân
1. Trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí nhân lực làm công tác tuyên truyền VSATTP
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động
tuyên truyền về VSATTP còn hạn chế, chưa thường xuyên, chủ yếu tập trung vào
các thời gian cao điểm có chiến dịch, có tháng hành động. Việc phối hợp giữa
các ban ngành có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Chưa giao thành chỉ tiêu kế hoạch cụ
thể về tuyên truyền VSATTP cho các đơn vị, địa phương, việc kiểm tra, giám sát
hoạt động này còn ít. Nguồn nhân lực làm công tác tuyên
truyền VSATTP rất thiếu về số lượng, và hạn chế về chất lượng, nhất là cán bộ
chuyên trách. Tổng số cán bộ tham gia làm công tác tuyên
truyền VSATTP tại các cấp là 1.430 người, trong đó cán bộ chuyên trách chỉ chiếm
chiếm 4,2%. Kể cả cán bộ chuyên trách cũng không chỉ làm
riêng về tuyên truyền VSATTP mà còn được giao làm nhiều hoạt
động chuyên môn khác của các đơn vị. Trong các đơn vị chuyên môn, tâm lý nhiều
cán bộ không thích làm công tác tuyên truyền, truyền thông.
Nguyên nhân do sự quan tâm chưa đúng
mức của lãnh đạo các địa phương, đơn vị làm công tác này, việc phân công nhiệm
vụ, bố trí cán bộ làm công tác tuyên truyền VSATTP chưa hợp lý, thiếu ổn định. Cán bộ làm công tác tuyên truyền chưa có chế độ thỏa đáng nên ảnh
hưởng đến sự nhiệt tình, yêu nghề của cán bộ làm công tác tuyên truyền, nhất là
tuyên truyền viên ở cơ sở,
2. Hình thức tuyên truyền
- Tuyên truyền trực tiếp
Trong những năm qua, hoạt động tuyên
truyền trực tiếp tại cộng đồng còn đơn điệu, số lượng ít, chưa
tập trung cho trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả chưa cao. Hình thức truyền thông
trực tiếp chủ yếu là: Tổ chức các lễ phát động, hội nghị tại tỉnh hoặc các huyện,
thành phố, đối tượng tham dự đa phần là cán bộ, học sinh, phụ nữ, thanh niên của
các cơ quan, tổ chức nhà nước, số người trực tiếp và liên quan đến sản xuất, chế
biến, kinh doanh thực phẩm và người dân còn ít. Việc lồng ghép tuyên truyền
VSATTP tại các buổi họp, sinh hoạt của một số hội, đoàn thể chưa nhiều, trung bình chỉ được hơn 20 lần/xã, phường, thị trấn/năm, thời lượng dành cho nội
dung tuyên truyền VSATTP tại các buổi này chưa nhiều. Việc tuyên truyền trực tiếp
tại các khu vực, địa điểm có nguy cơ cao về mất VSATTP như các chợ, trung tâm
thương mại, các doanh nghiệp, nhà trường có bếp ăn tập thể còn quá ít, hiệu quả thấp.
Nguyên nhân do thiếu các phương tiện
nghe nhìn ở cơ sở, tài liệu không đầy đủ. Lãnh đạo các cấp, nhất là lãnh đạo
ban quản lý các chợ, trung tâm thương mại, doanh nghiệp, nhà trường chưa quan
tâm đúng mức, chưa đầu tư thỏa đáng cho công tác tuyên truyền VSATTP tại chính
đơn vị mình. Các đơn vị quản lý thì chưa quan tâm đúng mức để chỉ đạo, hướng dẫn,
đôn đốc hoạt động tuyên truyền VSATTP tại các khu vực này.
- Tuyên truyền gián tiếp
Đây là hình thức tuyên truyền được thực
hiện nhiều trong thời gian qua và đã phát huy được tính tích cực, tuy nhiên chất
lượng chưa cao, thường tập trung vào các đợt cao điểm như chiến dịch, tháng
hành động. Thời lượng dành cho phát sóng, đăng bài còn khiêm tốn, thời điểm
phát sóng, đăng bài chưa được ưu tiên đúng mức nên hiệu quả còn hạn chế. Chưa
duy trì được thường xuyên nội dung ATTP trên chuyên mục, chuyên trang trên sóng
Đài PT&TH tỉnh và Báo Bắc Giang. Chưa phát huy được kênh tuyên truyền trên hệ thống các trang Web của cơ quan chức năng, đơn vị có
nhiệm vụ về VSATTP và trên mạng xã hội,
Nguyên nhân là các đơn vị chưa chủ động
về kế hoạch, chưa giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đơn vị, cơ
quan và cá nhân, nguồn kinh phí đầu tư cho hình thức tuyên
truyền này còn hạn hẹp, chưa tận dụng hết các kênh tuyên truyền phổ biến trong
xã hội.
- Tuyên truyền lưu động: Đây cũng là phương pháp tuyên truyền mang lại hiệu quả, phù hợp với
vùng sâu, vùng xa, tuy nhiên những năm qua được triển khai thực hiện còn hạn chế,
trung bình mỗi năm mỗi huyện/thành phố chỉ thực hiện 01 lần. Nguyên nhân do thiếu
kinh phí hoạt động.
- Tuyên truyền thông qua các ấn phẩm, tài liệu
Hình thức tuyên
truyền này còn rất yếu, các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền
ít, gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Trung ương cấp, số lượng
ngày càng giảm, không đủ để cấp phát, sử dụng trong các hoạt
động tuyên truyền tại cộng đồng. Tính trung bình mỗi huyện/thành phố chỉ được cấp
hơn 200 bản tài liệu; hơn 3000 tờ rơi, chủ yếu là áp
phích, hình thức Pano, tranh tuyên truyền, băng roll rất ít, chỉ có lác đác ở một số địa phương khi vào chiến dịch, tháng cao điểm. Không có
những ấn phẩm, tài liệu riêng của tỉnh tuyên truyền về VSATTP.
Nguyên nhân do thiếu kinh phí, mặt
khác năng lực viết bài, biên soạn tài liệu, biên tập của cán bộ làm công tác
tuyên truyền về VSATTP còn hạn chế.
3. Hạn chế về nội dung tuyên
truyền VSATTP
Thời gian vừa qua, nội dung tuyên truyền về VSATTP chủ yếu dựa vào tài liệu do Trung ương cấp,
chưa sát thực tế, nhu cầu của từng nhóm đối tượng, điều kiện tại địa phương, nội
dung chủ yếu tập trung vào đưa tin các hoạt động bề nổi,
đưa tin các vụ ngộ độc thực phẩm, ít đề cập đến phổ biến kiến thức, pháp luật về
VSATTP, chưa đi sâu vào những nội dung phổ biến, hướng dẫn kiến thức và kỹ năng
thực hành về VSATTP sát thực với các nhóm đối tượng khác nhau, nội dung ít được
cập nhật thường xuyên, dẫn đến đơn điệu, nhàm chán, chưa thu hút được sự quan
tâm của người nghe. Chưa nêu gương, biểu dương được nhiều gương người tốt, việc
tốt, những mô hình hay về VSATTP, cũng chưa mạnh dạn thông tin, phê phán những
cá nhân, tập thể vi phạm quy định của luật pháp về VSATTP trong nuôi trồng, sản xuất, chế biến, kinh doanh.
Nguyên nhân do hầu hết cán bộ làm
tuyên truyền VSATTP còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng được yêu
cầu thực tế. Hàng năm ít được tập huấn, cập nhật để nâng cao kỹ năng chuyên
môn, nghiệp vụ về tuyên truyền.
4. Hạn chế trong nhận thức, thực
hành về VSATTP
Các nhóm đối tượng tuyên truyền có hiểu biết, thực hành không đúng những quy định về VSATTP
còn cao: Nhóm lãnh đạo quản lý Nhà nước còn 17,7%; Nhóm lãnh đạo quản lý trong
các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn 21,7%; nhóm trực tiếp sản xuất, chế
biến thực phẩm còn 27,5%; nhóm kinh doanh thực phẩm còn 28,6%; nhóm người tiêu
dùng thực phẩm còn 29,2%.
Nguyên nhân là do các nhóm đối tượng
không ổn định, công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và hướng dẫn thực hành
về VSATTP chưa đủ mạnh, hiệu quả chưa cao. Nhóm cán bộ quản lý, sản xuất, chế
biến, kinh doanh chưa được tập huấn, cập nhật thường xuyên, đầy đủ về quy định
của luật pháp; kiến thức, thực hành về quy trình công nghệ sản xuất, chế biến
thực phẩm chưa tốt.
5. Tình hình ngộ độc thực phẩm
Giai đoạn 2011 - 2016, toàn tỉnh đã xảy
ra 24 vụ ngộ độc thực phẩm cấp tính, với 842 người mắc. 100% số vụ ngộ độc thực
phẩm là do thực phẩm bị ô nhiễm vi sinh vật. Số vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra tại
bếp ăn tập thể là 12 vụ, chiếm 50% số vụ. Ngoài ra hàng
năm trên địa bàn tỉnh cũng ghi nhận hàng trăm ca bệnh đơn lẻ bị rối loạn tiêu
hóa, tiêu chảy... phải vào điều trị tại các cơ sở y tế, nghi do ngộ độc thực phẩm
sau khi ăn thực phẩm không rõ nguồn gốc, không được kiểm soát tốt về VSATTP (Chi
tiết tại Phụ lục 2).
Nguyên nhân trực tiếp là do việc đảm
bảo VSATTP ở một số doanh nghiệp cung ứng suất ăn cho người
lao động không thực hiện nghiêm ngặt và thường xuyên về VSATTP; nhiều gia đình chưa có ý thức cao, chưa có kiến thức về việc lựa chọn thực
phẩm an toàn cho gia đình, nhất là khi tổ chức ăn uống tập trung trong các buổi
tiệc cưới, lễ hội... Nguyên nhân sâu xa là những người sản
xuất, chế biến thực phẩm và người dân khi sử dụng thực phẩm
chưa được tuyên truyền, hướng dẫn đầy đủ về kiến thức, kỹ năng thực hành về
VSATTP, chưa thấy được trách nhiệm to lớn của cá nhân và tập thể đối với công
tác VSATTP.
6. Khó khăn về
nguồn kinh phí
Kinh phí dành cho hoạt động tuyên
truyền, giáo dục phổ biến kiến thức, pháp luật về VSATTP những năm qua rất khó
khăn. Nguồn kinh phí chủ yếu do Trung ương hỗ trợ thông qua dự án VSATTP hàng năm,
trung bình mỗi năm tỉnh được Trung ương hỗ trợ khoảng 275
triệu đồng cho hoạt động này, chiếm tỷ trọng 28,14% so với số kinh phí Trung
ương cấp cho chương trình VSATTP và chương trình mục tiêu y tế - dân số. Hàng
năm ngân sách tỉnh cũng cấp đối ứng, bổ sung một phần nhưng chủ yếu cho một số
hoạt động cụ thể trong các chiến dịch, tháng cao điểm, hầu
như không có kinh phí cho hoạt động tuyên truyền. Các địa phương (huyện, xã)
không bố trí kinh phí cho hoạt động này trong kế hoạch hàng năm, khi vào các chiến
dịch, tháng cao điểm chỉ làm một số rất ít các băng rôn vượt đường treo ở một
vài địa điểm trung tâm tại địa phương, tác dụng tuyên truyền không lớn.
Nguyên nhân do nhiều địa phương chưa
quán triệt tốt vị trí, tầm quan trọng của công tác VSATTP, nhất là công tác
tuyên truyền VSATTP, không giao chỉ tiêu, không có kế hoạch
bố trí kinh phí cho công tác này hàng năm. Mặt khác kinh phí Trung ương những
năm vừa qua ngoài ngân sách nhà nước có sự tài trợ khá lớn của các tổ chức quốc
tế, nay bị cắt giảm, chỉ chủ yếu còn nguồn ngân sách nên rất hạn chế. Chưa huy
động được nguồn xã hội hóa cho hoạt động này, sự đóng góp của các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, những doanh
nghiệp lớn có bếp ăn tập thể không có, việc bảo đảm kinh
phí cho hoạt động tuyên truyền tại chính các doanh nghiệp cũng rất hạn chế.
(Chi
tiết tại Phụ lục 3).
Phần thứ ba
MỤC TIÊU, NỘI
DUNG CỦA ĐỀ ÁN
I. Mục tiêu, chỉ tiêu
1. Mục tiêu chung
Nâng cao nhận thức của người quản lý;
người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng thực phẩm về an toàn thực phẩm
góp phần bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của người dân trên địa bàn.
2. Chỉ tiêu cụ thể đến năm 2020
- ≥ 98% người quản lý; ≥ 95% người sản
xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm; ≥ 80% người tiêu dùng thực phẩm có kiến
thức thực hành đúng về ATTP;
- 100% cán bộ quản lý ATTP các cấp, cộng
tác viên ATTP ở tuyến xã, phường, thị trấn được tập huấn thường xuyên hàng năm
để cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền về VSATTP;
- Tỷ lệ người có kiến thức, thực hành
đúng về ATTP có kiến thức, thực hành đúng về ATTP đối với đối tượng lãnh đạo quản
lý đạt ≥ 95%; đối tượng trực tiếp sản xuất, chế biến thực
phẩm đạt ≥ 90%; đối tượng làm kinh doanh thực phẩm đạt ≥ 85%; đối tượng người
tiêu dùng thực phẩm đạt ≥ 80%.
(Chi tiết tiến độ từng năm tại Phụ lục 4)
3. Đối tượng tuyên truyền
- Các nhà lãnh đạo, quản lý công tác
VSATTP;
- Người sản xuất, chế biến, kinh
doanh thực phẩm;
- Người tiêu dùng thực phẩm.
II. Nội dung đổi mới công tác
tuyên truyền VSATTP
Kế thừa và phát huy những kết quả đã
đạt được trong những năm qua, giai đoạn 2018-2020 cần tập trung triển khai thực
hiện, đổi mới một số nội dung tuyên truyền về VSATTP như
sau:
1. Đổi mới về hình thức tuyên truyền VSATTP
- Hình thức tuyên
truyền trực tiếp: Bên cạnh tổ chức các chiến dịch, tháng hành động, phải tăng
cường về số lượng các buổi tuyên truyền trực tiếp về VSATTP tại cộng đồng. Dành
thời lượng tuyên truyền về VSATTP nhiều hơn trong các buổi
họp, hội nghị của các cấp, các ngành, đặc biệt là các buổi họp dân ở thôn xóm,
tổ dân phố. Tổ chức các buổi tuyên truyền chuyên đề về
VSATTP lồng ghép với các ngày tuyên truyền pháp luật định kỳ tại cơ sở, với các
hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ như hái hoa dân chủ, biểu diễn sáng tác
thơ văn, hò vè, tiểu phẩm... có nội dung tuyên truyền về VSATTP. Tập trung,
tăng cường thực hiện tuyên truyền VSATTP tại các khu vực có nguy cơ cao, trọng
điểm như chợ, trung tâm thương mại, các doanh nghiệp, các
trường học. Mở rộng hình thức tư vấn trực tiếp qua đường dây nóng, qua mạng xã
hội...
- Hình thức tuyên truyền gián tiếp:
Tăng cường tuyên truyền VSATTP thường xuyên liên tục trên đài, báo và các
phương tiện truyền thông đại chúng khác, kể cả khi không có chiến dịch cao điểm
hay không phải tháng hành động, Tăng thời lượng, phát sóng,
đưa tin bài; duy trì, mở rộng nội dung tuyên truyền về VSATTP trên các chuyên mục,
chuyên trang của đài, báo. Mở thêm các kênh tuyên truyền VSATTP
trên các trang Web, trang mạng xã hội để dễ tiếp cận các
nhóm đối tượng và truyền tải thông điệp tuyên truyền về
VSATTP đến cộng đồng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
- Hình thức tuyên truyền lưu động: Tiếp
tục duy trì và tăng cường hình thức này đối với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi
cao và tập trung cho các chiến dịch, tháng hành động...đây là hình thức tuyên
truyền có hiệu quả.
- Phát triển các
ấn phẩm, tài liệu phục vụ tuyên truyền VSATTP: Trên cơ sở các tài liệu, vật tư
tuyên truyền do Trung ương hỗ trợ, Phát huy tính sáng tạo, đẩy mạnh việc thiết
kế, xây dựng, tự sản xuất các tài liệu tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối
tượng của tỉnh; hình thức tài liệu thu hút được người xem, người đọc. Phục hồi
lại, duy trì phát hành thường xuyên bản tin của ngành y tế và các ngành khác
như Nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương... trong đó có chuyên mục
về VSATTP. Thường xuyên có bài viết tuyên truyền VSATTP lồng ghép trong ấn phẩm
bản tin của các cấp ủy đảng, các ban, ngành liên quan có bản tin chuyên ngành.
Tăng số lượng các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền về VSATTP cho tỉnh và các địa phương, đảm bảo
đầy đủ và phục vụ tốt các hoạt động
tuyên truyền tại cơ sở.
2. Đổi mới về nội dung tuyên truyền VSATTP:
- Nội dung tuyên truyền cần tập trung
nhiều hơn cho việc phổ biến kiến thức, quy định của luật pháp về VSATTP và
phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, hướng dẫn, vận động người dân, doanh nghiệp, các
cơ quan, đơn vị thực hiện đúng quy định của pháp luật và quy trình, quy phạm
chuyên môn về VSATTP.
- Nội dung các tin, bài, thông điệp
tuyên truyền phải rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm theo và được cập nhật, đổi mới thường xuyên về kiến thức, nội dung, không dập khuôn theo mẫu hoặc
lặp đi lặp lại quá nhiều các thông điệp dễ gây nhàm chán. Thông tin trong tuyên
truyền phải trung thực, kịp thời, khách quan, không cường điệu hóa gây hoang
mang dư luận.
- Công khai biểu dương gương người tốt,
việc tốt, tuyên truyền cổ vũ, phổ biến khuyến khích phát triển các mô hình chăn
nuôi, trồng trọt, sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm sạch, an toàn. Đồng thời phê phán những cá nhân, tập thể chưa thực hiện tốt
các quy định về VSATTP trên các bản tin, bài báo, bảo đảm thông tin công khai,
đầy đủ, chính xác đến người dân.
Phần thứ tư
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I. Một số giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động tuyên truyền về VSATTP
1. Đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo và
bố trí cán bộ
- Kiện toàn lại Ban chỉ đạo liên
ngành về VSATTP các cấp, hoàn thiện quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể,
duy trì hoạt động thường xuyên. Trong hoạt động, xác định lãnh đạo, chỉ đạo hoạt
động tuyên truyền là nhiệm vụ hàng đầu trong hoạt động
VSATTP.
- Hàng năm tỉnh và các địa phương
(huyện, xã), các đơn vị, ngành thành viên Ban chỉ đạo tỉnh xây dựng kế hoạch bảo
đảm VSATTP trong đó có giao chỉ tiêu về hoạt động tuyên truyền về VSATTP. Xây dựng lịch và thực hiện kiểm tra, đôn đốc
hoạt động tuyên truyền về VSATTP định kỳ và đột xuất,
- Rà soát, bố trí cán bộ, giao nhiệm
vụ cho cá nhân cán bộ và các tập thể làm công tác tuyên truyền về VSATTP theo
hướng chuyên trách, ổn định.
- Tổ chức các lớp tập huấn phổ biến
pháp luật, kiến thức quản lý, kỹ năng tuyên truyền về VSATTP, phòng ngừa ngộ độc
thực phẩm... cho cán bộ lãnh đạo, quản lý VSATTP các cấp, các cộng tác viên,
cán bộ chuyên trách của các ngành, các đơn vị, cán bộ lãnh đạo các doanh nghiệp,
cá nhân trực tiếp làm việc về nuôi trồng, sản xuất, chế biến, kinh doanh thực
phẩm; tập huấn kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ về VSATTP cho lãnh đạo và cán bộ
y tế trường học; Đặc biệt là tập huấn kiến thức, kỹ năng
tuyên truyền cho cán bộ chuyên trách về tuyên truyền VSATTP ở các cấp.
- Thường xuyên định kỳ hoặc đột xuất
tổ chức kiểm tra việc thực hiện các hoạt động tuyên truyền VSATTP ở các cấp,
các ngành, các đơn vị.
- Hàng năm tổ chức điều tra, đánh giá
về kiến thức, hành vi về VSATTP trong
các nhóm đối tượng để đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền VSATTP.
2. Giải pháp về phối hợp liên ngành trong hoạt động tuyên truyền VSATTP
- Tăng cường công tác phối hợp liên ngành
trong hoạt động tuyên truyền về VSATTP ở các cấp, thực hiện chế độ thông tin,
thông báo tình hình hoạt động giữa các ngành, các đơn vị, địa phương về hoạt động
tuyên truyền VSATTP.
- Huy động đội ngũ cán bộ y tế, giáo
dục, công thương, nông nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp; các doanh nghiệp thực phẩm để phối hợp tổ chức,
triển khai các hoạt động tuyên truyền VSATTP, hướng dẫn kiến thức pháp luật, thực hành bảo đảm ATTP thông qua hình thức tổ chức các phong trào
cộng đồng dân cư và các cấp hội.
- Phát huy vai trò của các cơ quan
thông tin đại chúng, hệ thống loa đài tại địa phương; đặc biệt là Đài PT&TH
tỉnh, Báo Bắc Giang trong công tác tuyên truyền về VSATTP. Phối hợp tốt, thường
xuyên với các cơ quan thông tin đại chúng của Trung ương, nhất là các đơn vị có
cơ quan thường trú tại tỉnh để thống nhất thông tin tuyên truyền, đảm bảo chính
xác, khách quan, trung thực và chủ động;
3. Giải pháp bảo đảm kinh phí
cho hoạt động tuyên truyền VSATTP
- Hàng năm tỉnh và các địa phương xây
dựng kế hoạch chi tiết về kinh phí cho công tác tuyên truyền VSATTP trong kinh
phí cấp chung hoạt động VSATTP. Tăng tỷ lệ kinh phí dành cho hoạt động tuyên
truyền VSATTP từ các nguồn do Trung ương hỗ trợ qua các chương trình dự án về
VSATTP, nguồn do tỉnh và các địa phương cấp từ ngân sách cho các hoạt động
VSATTP theo kế hoạch hàng năm.
- Tranh thủ nguồn kinh phí từ xã hội
hóa, vận động, khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh, chế biến thực phẩm đóng góp nguồn kinh phí cho hoạt động tuyên truyền
VSATTP, doanh nghiệp tự bố trí kinh phí duy trì và mở rộng hoạt động tuyên truyền
VSATTP thường xuyên tại doanh nghiệp,
- Tăng cường việc quản lý, sử dụng
kinh phí trong hoạt động tuyên truyền về VSATTP bảo đảm đúng mục đích, đúng nội
dung, đúng quy định hiện hành của Nhà nước, tiết kiệm, hiệu quả.
Tổng nhu cầu kinh phí thực hiện Đề
án: 5.400.000.000 đồng (Năm tỷ bốn trăm triệu đồng).
Trong đó:
- Tuyến tỉnh: 3.300.000.000 đồng.
- Tuyến huyện, xã: 2.100.000.000 đồng
(Chi tiết nguồn vốn và nhu cầu kinh phí theo năm tại Phụ lục 5)
II. Tổ chức thực hiện
1. Sở Y tế: Chủ trì tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng đề án và kế
hoạch triển khai thực hiện các hoạt động của đề án. Tham mưu cho Ban chỉ đạo tỉnh
và trực tiếp triển khai thực hiện một số hoạt động sau:
- Xây dựng mạng lưới làm công tác
tuyên truyền VSATTP trong ngành y tế. Tổ chức tập huấn kiến
thức, kỹ năng truyền thông VSATTP cho cán bộ làm công tác tuyên truyền VSATTP
trong ngành.
- Phối hợp với các cơ quan thông tin
đại chúng của tỉnh và Trung ương, các ban, ngành, đoàn thể và đơn vị liên quan
triển khai tuyên truyền, giáo dục về VSATTP trên các phương tiện thông tin đại
chúng của tỉnh, của Trung ương, trong các ngành. Tổ chức tuyên truyền trên
trang Web của ngành và các đơn vị y tế, trên mạng xã hội. Duy trì việc công
khai đường dây nóng tư vấn về VSATTP tại các đơn vị chức năng trong ngành ở các
cấp.
- Làm đầu mối tham mưu tổ chức các
chiến dịch, đợt cao điểm, tháng hành động về VSATTP, trong đó trọng tâm là công
tác tuyên truyền.
- Phối hợp với các địa phương, các
ban ngành, doanh nghiệp tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức, pháp luật
về VSATTP cho người quản lý, người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng thực
phẩm, nhất là các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có bếp ăn tập thể, chế biến xuất
ăn; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, tập huấn về VSATTP cho cán bộ lãnh đạo
trường học và y tế học đường.
- Xây dựng nội dung, sản xuất các ấn
phẩm, tài liệu tuyên truyền về VSATTP sử dụng trên địa bàn tỉnh.
- Hàng năm tham mưu UBND tỉnh xây dựng
kế hoạch và tổ chức điều tra đánh giá về nhận thức, hành vi của các nhóm đối tượng
để đánh giá hiệu quả của công tác tuyên truyền VSATTP. Đồng thời tham mưu việc
tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện đề án theo hình thức thích hợp.
2. Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
- Chủ trì, phối hợp với các cấp chính
quyền địa phương, các ban, ngành đoàn thể, các hội để triển khai tập huấn,
tuyên truyền, giáo dục về VSATTP cho người nuôi trồng
nông, lâm, thủy sản thực phẩm thuộc trách nhiệm quản lý.
- Thực hiện tuyên truyền, phổ biến, khuyến khích phát triển, nhân rộng các mô hình, quy trình, quy phạm
nuôi trồng nông, lâm, thủy sản thực phẩm sạch trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Thông báo công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng tới người tiêu dùng các cơ sở sản xuất, chế biến sản
phẩm nông, lâm thủy sản an toàn, không an toàn; duy trì công việc công khai đường
dây nóng về VSATTP của các đơn vị chức năng trong ngành tại các cấp.
3. Sở Công Thương
- Chủ trì, phối hợp với các cấp chính
quyền địa phương, các ban, ngành đoàn thể, các hội để triển khai tập huấn,
tuyên truyền, giáo dục về VSATTP cho người sản xuất, buôn bán, kinh doanh thực
phẩm, nhất là các doanh nghiệp. Chú trọng tuyên truyền phổ biến về kiến thức,
pháp luật VSATTP, các quy trình, quy phạm công nghệ sản xuất, bảo quản, kinh
doanh bảo đảm VSATTP thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
- Duy trì việc công khai đường dây
nóng về VSATTP của các đơn vị chức năng trong ngành tại các cấp.
4. Sở Thông tin và Truyền thông
- Phối hợp với Sở Y tế tham mưu UBND
tỉnh, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các các hoạt động của Đề án. Định
hướng nội dung tuyên truyền cho các cơ quan báo chí; Đài truyền thanh các huyện,
thành phố; hệ thống Đài truyền thanh xã, phường, thị trấn
về ATTP theo định kỳ tháng, quý, năm.
- Theo dõi đôn đốc các cơ quan báo
chí trên địa bàn tỉnh, các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố thực hiện
tốt công tác thông tin, tuyên truyền về ATTP theo đề án này; giám sát việc quảng
cáo thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng theo đúng quy định của
pháp luật.
- Xem xét cấp phép cho việc sản xuất
các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền, quảng cáo về VSATTP cần phải cấp phép theo
đúng quy định của luật pháp.
5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Tổ chức tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện các tiêu chí bảo đảm VSATTP gắn với cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh” và thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, thay đổi
những phong tục tập quán không đảm bảo VSATTP, ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng con người.
- Chủ trì, phối hợp với các ngành chức
năng tuyên truyền vận động người dân bảo đảm VSATTP trong các khu du lịch, lễ hội,
các sự kiện thể thao, văn hóa trên địa bàn tỉnh.
6. Sở Giáo dục và Đào tạo
- Chỉ đạo các
trường học triển khai việc tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục về VSATTP vào
các môn học phù hợp, các hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao nhận thức, hành vi
về VSATTP cho học sinh, sinh viên. Thường xuyên tuyên truyền về VSATTP tới toàn
thể giáo viên; các trường học có bếp ăn tập thể, căng tin
kinh doanh ăn uống thực hiện tốt VSATTP.
- Chủ trì, phối hợp với Sở Y tế tập
huấn kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ về ATTP cho cán bộ y tế học đường.
7. Đài PT&TH tỉnh, Báo Bắc
Giang
- Thường xuyên duy trì, mở rộng và nâng cao chất lượng chuyên mục, chuyên trang về ATTP trên
sóng Đài phát thanh và truyền hình, trên báo in vào báo điện tử theo chỉ tiêu đề
án để thực hiện nội dung tuyên truyền; kịp thời biểu dương trên đài, báo các
gương người tốt việc tốt, cũng như phê phán các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định
pháp luật về VSATTP. Ưu tiên thời lượng, thời điểm phát sóng, đăng bài nội dung
về VSATTP.
- Tăng số lượng tin, bài, phóng sự,
phỏng vấn, video clip, hình ảnh, tổ chức các chương trình đối thoại, tọa đàm trực
tiếp liên quan đến các nội dung về VSATTP phát trên sóng
Đài phát thanh, truyền hình và đăng tải trên báo in, báo điện tử.
8. Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư
- Tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí
trong kế hoạch hàng năm để đáp ứng yêu cầu thực hiện đề
án.
- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và quản
lý việc sử dụng kinh phí theo đúng quy định, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
9. Các sở, ban ngành khác: Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, chỉ đạo các đơn vị trong
ngành, thường xuyên phối hợp với các sở, ngành có liên quan tăng cường tuyên
truyền, giáo dục kiến thức pháp luật về VSATTP tới toàn thể cán bộ, viên chức, người lao động; các đơn vị có bếp ăn tập thể thực hiện
tốt công tác bảo đảm VSATTP
10. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc tỉnh: Tăng cường chỉ đạo, phối hợp với các tổ
chức thành viên của Mặt trận, tổ chức giám sát, tuyên truyền, vận động đoàn
viên, hội viên tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền VSATTP trong ngành,
đơn vị mình và ở địa phương. Gắn các phong trào thi đua, các cuộc vận động của
Mặt trận với nội dung tuyên truyền về VSATTP.
11. UBND huyện, thành phố
- Hàng năm xây dựng và triển khai kế
hoạch thực hiện đề án của huyện, thành phố. Bố trí nguồn kinh phí của địa
phương bảo đảm cho kế hoạch thực hiện đề án.
- Phối hợp với các sở chuyên ngành của
tỉnh triển khai việc thực hiện các nội dung của đề án tại địa phương, đảm bảo
hiệu quả, hoàn thành tiến độ chỉ tiêu kế hoạch theo quy định của đề án.
- Chỉ đạo các xã, phường, thị trấn xây
dựng kế hoạch, triển khai, tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức
và thực hành về VSATTP, ý thức chấp hành pháp luật về VSATTP cho nhân dân, các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn; nâng cao ý thức trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm đối với cộng đồng. Không để ngộ độc thực phẩm xảy
ra trên địa bàn.
12. Chế độ kiểm tra, báo cáo,
sơ kết, tổng kết
Định kỳ 6 tháng, UBND các huyện,
thành phố báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện Đề án (qua Sở Y tế); hàng năm tổ
chức kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện Đề án. Tháng 12/2020 tổ chức tổng kết
thực hiện Đề án./.
PHỤ LỤC 1:
KẾT QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN KIẾN THỨC, PHÁP LUẬT VỀ
VSATTP TỪ NĂM 2011 ĐẾN 2016
(Kèm theo Đề án Đổi mới công tác tuyên truyền VSATTP tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2018-2020)
TT
|
Hoạt
động
|
ĐV
tính
|
Năm
2011
|
Năm
2012
|
Năm
2013
|
Năm
2014
|
Năm
2015
|
Năm
2016
|
Cộng
|
TB
năm
|
1
|
Lễ phát động/Hội nghị phát động
tháng hành động
|
Buổi
|
105
|
93
|
62
|
108
|
115
|
56
|
539
|
90
|
Lượt
người
|
24967
|
13951
|
6478
|
6326
|
12340
|
3598
|
67696
|
11283
|
2
|
Nói chuyện, hội
nghị, hội thảo, tập huấn, hội nghị....
|
Buổi
|
12658
|
5254
|
10633
|
6549
|
832
|
899
|
36825
|
6138
|
Lượt
người
|
805690
|
345717
|
1177598
|
505500
|
30397
|
44950
|
2909852
|
484975
|
3
|
Phát thanh, truyền hình tỉnh, huyện
|
Lượt
|
24184
|
12556
|
12799
|
12890
|
12500
|
12850
|
87779
|
14630
|
4
|
Báo viết, báo
điện tử
|
Bài
|
320
|
38
|
26
|
53
|
58
|
90
|
585
|
98
|
5
|
Sản phẩm truyền thông
|
Băng rôn, khẩu hiệu
|
Chiếc
|
1828
|
329
|
2086
|
1225
|
532
|
452
|
6452
|
1075
|
Tranh, pano, áp phích
|
Tờ
|
4835
|
975
|
1127
|
5061
|
778
|
800
|
12449
|
2075
|
Tờ gấp, tài liệu
|
Tờ
|
77104
|
2464
|
16250
|
44250
|
73172
|
9694
|
222934
|
37156
|
Băng, đĩa hình, đĩa âm
|
Chiếc
|
296
|
69
|
726
|
30
|
164
|
308
|
1593
|
266
|
Tuyên truyền cơ động
|
Buổi
|
12
|
9
|
11
|
11
|
11
|
|
54
|
9
|
Luật ATTP
|
Quyển
|
|
5886
|
|
|
|
|
5886
|
981
|
Tài liệu phổ biến kiến thức, pháp luật về ATTP
|
Quyển
|
|
3705
|
|
141
|
141
|
9611
|
13598
|
2266
|
Tạp chí sức khỏe và ATTP
|
Quyển
|
|
1500
|
|
|
|
|
1500
|
250
|
Bản tin về VSATTP
|
Quyển
|
1250
|
|
2093
|
6200
|
4800
|
8844
|
23187
|
3865
|
PHỤ LỤC 2:
TÌNH HÌNH NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH 2011-2016
(Kèm theo Đề án Đổi mới công tác tuyên truyền VSATTP tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2018-2020)
Năm
|
Số
vụ ngộ độc thực phẩm
|
Nguyên
nhân do vi sinh vật, bệnh truyền nhiễm qua TP
|
Sự
cố về ATTP khác
|
Số
lượng
|
Số
ca mắc
|
Số
người mắc
|
Số
người bị tử vong do NĐTP
|
Số
lượng
|
Số
ca mắc
|
Số
người mắc
|
Số
người bị tử vong do NĐTP
|
2011
|
8
|
131
|
131
|
0
|
8
|
131
|
131
|
0
|
0
|
2012
|
2
|
25
|
25
|
0
|
2
|
25
|
25
|
0
|
0
|
2013
|
5
|
196
|
196
|
0
|
5
|
196
|
196
|
0
|
0
|
2014
|
3
|
250
|
250
|
0
|
3
|
250
|
250
|
0
|
0
|
2015
|
1
|
8
|
8
|
0
|
1
|
8
|
8
|
0
|
0
|
2016
|
5
|
232
|
232
|
0
|
5
|
232
|
232
|
0
|
0
|
Cộng
|
24
|
842
|
842
|
0
|
24
|
842
|
842
|
0
|
0
|
PHỤ LỤC 3:
KINH PHÍ CHI CHO CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
VSATTP TỪ 2011-2016
(Kèm theo Đề án Đổi mới công tác tuyên truyền
VSATTP tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2018-2020)
ĐV
tính: đồng
Năm
|
Tổng
kinh phí chi cho hoạt động VSATTP
|
Kinh
phí chi cho công tác tuyên truyền về VSATTP
|
Tỷ
lệ (%)
|
2011
|
1.354.000.000
|
364.000.000
|
26,88
|
2012
|
1.620.000.000
|
450.000.000
|
27,78
|
2013
|
1.529.761.000
|
426.945.000
|
27,91
|
2014
|
517.000.000
|
200.000.000
|
38,68
|
2015
|
532.000.000
|
214.000.000
|
40,17
|
2016
|
328.050.000
|
0
|
0
|
Cộng
|
5.881.511.000
|
1.654.945.000
|
28,14
|
PHỤ LỤC 4:
CHỈ TIÊU THỰC HIỆN ĐỀ ÁN THEO TIẾN ĐỘ TỪ 2018-2020
(Kèm theo Đề án Đổi mới công tác tuyên truyền VSATTP tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2018-2020)
Nội
dung
|
Năm
2017
|
Năm
2018
|
Năm
2019
|
Năm
2020
|
Tỷ lệ người quản lý có kiến thức thực
hành đúng về ATTP
|
81.4
|
≥ 87
|
≥ 93
|
≥ 98
|
Tỷ lệ người sản xuất chế biến, kinh
doanh thực phẩm có kiến thức thực hành đúng về ATTP
|
71.4
|
≥ 78
|
≥ 89
|
≥ 95
|
Tỷ lệ người người tiêu dùng thực phẩm
có kiến thức thực hành đúng về ATTP
|
70
|
≥ 75
|
≥ 77
|
≥ 80
|
Tỷ lệ cán bộ quản lý ATTP các cấp được
tập huấn chương trình cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ
|
85
|
90
|
95
|
100
|
Tỷ lệ cộng tác viên ATTP ở tuyến
xã, phường được tập huấn kiến thức về ATTP
|
80
|
88
|
95
|
100
|
PHỤ LỤC 5:
TỔNG HỢP NHU CẦU VỐN VÀ NGUỒN VỐN THỰC HIỆN
ĐỀ ÁN THEO CÁC NĂM
(Kèm theo Đề án Đổi mới công tác tuyên truyền
VSATTP tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2018-2020)
Đơn vị tính: đồng
Năm
|
Nguồn
vốn
|
Tập huấn, tổ chức điều tra nhận thức về VSATTP các
nhóm đối tượng
|
Tuyên
truyền trực tiếp, lưu động và xuất bản ấn phẩm, tài liệu
|
Tuyên
truyền gián tiếp
|
Cộng
|
2018
|
Tỉnh
|
700
000 000
|
300
000 000
|
200
000 000
|
1 200
000 000
|
Huyện, xã
|
|
500
000 000
|
200
000 000
|
700
000 000
|
Cộng
|
700
000 000
|
300
000 000
|
200
000 000
|
1
200 000 000
|
2019
|
Tỉnh
|
500
000 000
|
400
000 000
|
200
000 000
|
1 100
000 000
|
Huyện, xã
|
|
500
000 000
|
200
000 000
|
700
000 000
|
Cộng
|
500
000 000
|
900
000 000
|
400
000 000
|
1
800 000 000
|
2020
|
Tỉnh
|
400
000 000
|
400
000 000
|
200
000 000
|
1 000
000 000
|
Huyện, xã
|
|
500
000 000
|
200
000 000
|
700
000 000
|
Cộng
|
400
000 000
|
900
000 000
|
400
000 000
|
1
700 000 000
|
Cộng tỉnh
|
1
600 000 000
|
1 100 000 000
|
600
000 000
|
3
300 000 000
|
Cộng huyện, xã
|
|
1 500 000 000
|
600
000 000
|
2
100 000 000
|
TỔNG
CỘNG
|
1
600 000 000
|
2
600 000 000
|
1
200 000 000
|
5
400 000 000
|