Quyết định 1656/2006/QĐ-UBND về Chương trình Phát triển Dịch vụ tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006 - 2010
Số hiệu | 1656/2006/QĐ-UBND |
Ngày ban hành | 07/07/2006 |
Ngày có hiệu lực | 22/07/2006 |
Loại văn bản | Quyết định |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Thừa Thiên Huế |
Người ký | Nguyễn Xuân Lý |
Lĩnh vực | Văn hóa - Xã hội |
ỦY
BAN NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1656/2006/QĐ-UBND |
Huế, ngày 07 tháng7 năm 2006 |
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16 tháng 8 năm 2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010;
Căn cứ Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
Căn cứ Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010;
Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XIII;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 15 kể từ ngày từ ngày ký.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN |
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1656/2006/QĐ-UBND ngày 07 tháng 7 năm
2006 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế)
I. Đánh giá chung giai đoạn 2001 – 2005:
Trong 5 năm qua (2001 – 2005), nền kinh tế xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế đã phát triển theo chiều hướng tiến bộ, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, bình quân giai đoạn (2001 – 2005) đạt 9,6%/năm (mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XII từ 8 – 9%, mục tiêu của hội nghị giữa nhiệm kỳ là 10%), cao hơn mức tăng 6,3% của 5 năm trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khu vực dịch vụ tăng bình quân 8,2%/năm (kế hoạch 7-8%) mặc dù thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế 9,6%, nhưng đã đóng góp trong GDP của tỉnh từ 43-44 %/năm.
Khu vực dịch vụ Thừa Thiên Huế đã có sự chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng nhanh. Chất lượng dịch vụ được nâng lên đáng kể, thu hút nhiều lao động, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống của dân cư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Loại hình dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng, cơ sở vật chất một số ngành dịch vụ được đầu tư hiện đại về trang thiết bị công nghệ, mở rộng về quy mô, nhất là các dịch vụ tin học, bưu chính, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, y tế, giáo dục, giao thông vận tải,…
Khu vực dịch vụ giai đoạn 2001 – 2005 phát triển tập trung ở nhóm hoạt động có tính chất thị trường, chiếm tỷ trọng trong tổng GDP khu vực dịch vụ lên đến 75,6%, tiếp đến là nhóm hoạt động sự nghiệp (16,4%), nhóm hoạt động quản lý nhà nước (7,5%). Khu vực dịch vụ phát triển trên các lĩnh vực khách sạn nhà hàng, thương mại, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, tài chính ngân hàng thể hiện bởi một số chỉ tiêu cụ thể sau:
Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng bình quân 16,1%/năm; dịch vụ vận tải hàng hoá tăng 13,1%/năm, dịch vụ bưu chính viễn thông tăng bình quân 14%/năm; Tổng lượt khách du lịch tăng bình quân 17,5%/năm, doanh thu du lịch tăng 23%/năm; Nguồn vốn huy động qua ngân hàng tăng bình quân 15-20%/năm.
Nhìn chung, ngành dịch vụ trong những năm qua ngày càng tăng trưởng hơn về quy mô và phong phú hơn về chủng loại. Nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của ngành.
Lĩnh vực du lịch đã thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia, có sự phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng hoạt động; công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến mở rộng thị trường được chú trọng, đội ngũ lao động ngành du lịch được đào tạo, nâng cao chất lượng. Hoạt động du lịch nhân dân được mở rộng với nhiều loại hình du lịch phong phú như: nhà vườn, du lịch sinh thái, lễ hội, gắn du lịch với khôi phục ngành nghề thủ công truyền thống. Đặc biệt, thành công của 3 kỳ Festival mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch và dịch vụ. Mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch SARS, cúm gia cầm trong năm 2003, 2004, 2005 nhưng tổng lượt khách du lịch vẫn tăng bình quân 17,5%/năm, doanh thu du lịch tăng 23%/năm.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch được tăng cường đáng kể. Đến nay, toàn ngành có 142 cơ sở lưu trú với tổng số buồng phòng là 4.200 phòng (năm 2001 là 2.464 phòng). Tổng lượt khách du lịch tăng khá với tốc độ tăng bình quân 17,5%, năm 2005 đạt 1.050.000 lượt khách), công suất sử dụng buồng phòng đạt cao hơn mức bình quân cả nước (67% so với cả nước là 50%). Tỉnh Thừa Thiên Huế xác định ba khu vực trọng điểm phát triển du lịch bao gồm: cụm du lịch Huế và phụ cận, cụm du lịch Cảnh Dương - Bạch Mã – Lăng Cô và phụ cận, cụm du lịch A Lưới. Từ đó có chính sách thu hút đầu tư và đưa vào hoạt động một số điểm như: suối nước nóng Mỹ An, Thanh Tân, suối Voi, Nhị Hồ, vườn quốc gia Bạch Mã, khu du lịch Lăng Cô, khu vui chơi giải trí Thiên An - Thuỷ Tiên; các cơ sở nhà hàng, khách sạn được đầu tư, nâng cấp đảm bảo tiêu chuẩn đón khách và các hội nghị Quốc tế. Tài nguyên du lịch văn hoá được giữ gìn, phục hồi, và khai thác tốt hơn. Trường Trung học Du lịch phát huy tốt vai trò đào tạo nguồn nhân lực cho cả khu vực miền Trung, đang tiếp tục được đầu tư mở rộng, tạo tiền đề cho việc nâng lên thành trường Đại học Du lịch.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng và chất lượng của ngành dịch vụ du lịch còn thấp. Dịch vụ du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu. Tiến độ xây dựng các công trình phục vụ du lịch còn chậm cả về cơ sở lưu trú, hạ tầng và các khu vui chơi giải trí nhằm kéo dài thời gian lưu trú của khách.
Sự phối hợp giữa hai ngành Thương mại và Du lịch chưa đủ mạnh để phát triển du lịch mua sắm. Chưa có biện pháp triển khai mạnh kế hoạch liên kết tổ chức tour từ các tỉnh bạn đến Huế. Việc kết hợp giữa các Sở ngành có liên quan để phát triển loại hình văn hoá du lịch, du lịch sinh thái nghỉ dưỡng chưa mạnh, chưa đồng bộ nên chưa tạo được bước tiến mới cho các loại hình du lịch này.
Tính chuyên nghiệp trong công tác quảng bá du lịch chưa cao. Trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của đội ngũ hướng dẫn viên nói chung còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu hướng dẫn khách du lịch đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc...
Các dịch vụ vận tải công cộng nhờ có chính sách xã hội hoá nên có bước phát triển cả tuyến nội tỉnh và tuyến liên tỉnh. Phương tiện đi lại của nhân dân ở nông thôn, miền núi được cải thiện. Giao thông công cộng đã được chú trọng đầu tư chất lượng cao, đủ các loại hình phương tiện: xe buýt (15 chiếc), xe taxi (207 chiếc), xe khách (280 xe phục vụ trên 25 tuyến), vận tải khách theo hợp đồng (170 xe), xe vận tải hàng hóa (trọng tải dưới 2,5 tấn: 1043 xe, trọng tải dưới 10 tấn: 1453 xe, trọng tải trên 10 tấn: 299 xe; Xe bồn chở xăng dầu 61 xe) xích lô phục vụ du lịch, thuyền rồng (100 chiếc). Nhờ đó, khối lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách tăng nhanh qua các năm, hành khách luân chuyển tăng bình quân 3,1%/năm, khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 13,1%/năm.
ỦY
BAN NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1656/2006/QĐ-UBND |
Huế, ngày 07 tháng7 năm 2006 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16 tháng 8 năm 2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010;
Căn cứ Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
Căn cứ Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010;
Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XIII;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 15 kể từ ngày từ ngày ký.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN |
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1656/2006/QĐ-UBND ngày 07 tháng 7 năm
2006 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế)
PHẦN I
HIỆN TRẠNG KHU VỰC DỊCH VỤ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
I. Đánh giá chung giai đoạn 2001 – 2005:
Trong 5 năm qua (2001 – 2005), nền kinh tế xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế đã phát triển theo chiều hướng tiến bộ, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, bình quân giai đoạn (2001 – 2005) đạt 9,6%/năm (mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XII từ 8 – 9%, mục tiêu của hội nghị giữa nhiệm kỳ là 10%), cao hơn mức tăng 6,3% của 5 năm trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khu vực dịch vụ tăng bình quân 8,2%/năm (kế hoạch 7-8%) mặc dù thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế 9,6%, nhưng đã đóng góp trong GDP của tỉnh từ 43-44 %/năm.
Khu vực dịch vụ Thừa Thiên Huế đã có sự chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng nhanh. Chất lượng dịch vụ được nâng lên đáng kể, thu hút nhiều lao động, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống của dân cư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Loại hình dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng, cơ sở vật chất một số ngành dịch vụ được đầu tư hiện đại về trang thiết bị công nghệ, mở rộng về quy mô, nhất là các dịch vụ tin học, bưu chính, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, y tế, giáo dục, giao thông vận tải,…
Khu vực dịch vụ giai đoạn 2001 – 2005 phát triển tập trung ở nhóm hoạt động có tính chất thị trường, chiếm tỷ trọng trong tổng GDP khu vực dịch vụ lên đến 75,6%, tiếp đến là nhóm hoạt động sự nghiệp (16,4%), nhóm hoạt động quản lý nhà nước (7,5%). Khu vực dịch vụ phát triển trên các lĩnh vực khách sạn nhà hàng, thương mại, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, tài chính ngân hàng thể hiện bởi một số chỉ tiêu cụ thể sau:
Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng bình quân 16,1%/năm; dịch vụ vận tải hàng hoá tăng 13,1%/năm, dịch vụ bưu chính viễn thông tăng bình quân 14%/năm; Tổng lượt khách du lịch tăng bình quân 17,5%/năm, doanh thu du lịch tăng 23%/năm; Nguồn vốn huy động qua ngân hàng tăng bình quân 15-20%/năm.
Nhìn chung, ngành dịch vụ trong những năm qua ngày càng tăng trưởng hơn về quy mô và phong phú hơn về chủng loại. Nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của ngành.
II. Tình hình phát triển một số loại hình dịch vụ chủ yếu giai đoạn 2001 – 2005:
1. Du lịch:
Lĩnh vực du lịch đã thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia, có sự phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng hoạt động; công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến mở rộng thị trường được chú trọng, đội ngũ lao động ngành du lịch được đào tạo, nâng cao chất lượng. Hoạt động du lịch nhân dân được mở rộng với nhiều loại hình du lịch phong phú như: nhà vườn, du lịch sinh thái, lễ hội, gắn du lịch với khôi phục ngành nghề thủ công truyền thống. Đặc biệt, thành công của 3 kỳ Festival mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch và dịch vụ. Mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch SARS, cúm gia cầm trong năm 2003, 2004, 2005 nhưng tổng lượt khách du lịch vẫn tăng bình quân 17,5%/năm, doanh thu du lịch tăng 23%/năm.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch được tăng cường đáng kể. Đến nay, toàn ngành có 142 cơ sở lưu trú với tổng số buồng phòng là 4.200 phòng (năm 2001 là 2.464 phòng). Tổng lượt khách du lịch tăng khá với tốc độ tăng bình quân 17,5%, năm 2005 đạt 1.050.000 lượt khách), công suất sử dụng buồng phòng đạt cao hơn mức bình quân cả nước (67% so với cả nước là 50%). Tỉnh Thừa Thiên Huế xác định ba khu vực trọng điểm phát triển du lịch bao gồm: cụm du lịch Huế và phụ cận, cụm du lịch Cảnh Dương - Bạch Mã – Lăng Cô và phụ cận, cụm du lịch A Lưới. Từ đó có chính sách thu hút đầu tư và đưa vào hoạt động một số điểm như: suối nước nóng Mỹ An, Thanh Tân, suối Voi, Nhị Hồ, vườn quốc gia Bạch Mã, khu du lịch Lăng Cô, khu vui chơi giải trí Thiên An - Thuỷ Tiên; các cơ sở nhà hàng, khách sạn được đầu tư, nâng cấp đảm bảo tiêu chuẩn đón khách và các hội nghị Quốc tế. Tài nguyên du lịch văn hoá được giữ gìn, phục hồi, và khai thác tốt hơn. Trường Trung học Du lịch phát huy tốt vai trò đào tạo nguồn nhân lực cho cả khu vực miền Trung, đang tiếp tục được đầu tư mở rộng, tạo tiền đề cho việc nâng lên thành trường Đại học Du lịch.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng và chất lượng của ngành dịch vụ du lịch còn thấp. Dịch vụ du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu. Tiến độ xây dựng các công trình phục vụ du lịch còn chậm cả về cơ sở lưu trú, hạ tầng và các khu vui chơi giải trí nhằm kéo dài thời gian lưu trú của khách.
Sự phối hợp giữa hai ngành Thương mại và Du lịch chưa đủ mạnh để phát triển du lịch mua sắm. Chưa có biện pháp triển khai mạnh kế hoạch liên kết tổ chức tour từ các tỉnh bạn đến Huế. Việc kết hợp giữa các Sở ngành có liên quan để phát triển loại hình văn hoá du lịch, du lịch sinh thái nghỉ dưỡng chưa mạnh, chưa đồng bộ nên chưa tạo được bước tiến mới cho các loại hình du lịch này.
Tính chuyên nghiệp trong công tác quảng bá du lịch chưa cao. Trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của đội ngũ hướng dẫn viên nói chung còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu hướng dẫn khách du lịch đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc...
2. Giao thông vận tải:
Các dịch vụ vận tải công cộng nhờ có chính sách xã hội hoá nên có bước phát triển cả tuyến nội tỉnh và tuyến liên tỉnh. Phương tiện đi lại của nhân dân ở nông thôn, miền núi được cải thiện. Giao thông công cộng đã được chú trọng đầu tư chất lượng cao, đủ các loại hình phương tiện: xe buýt (15 chiếc), xe taxi (207 chiếc), xe khách (280 xe phục vụ trên 25 tuyến), vận tải khách theo hợp đồng (170 xe), xe vận tải hàng hóa (trọng tải dưới 2,5 tấn: 1043 xe, trọng tải dưới 10 tấn: 1453 xe, trọng tải trên 10 tấn: 299 xe; Xe bồn chở xăng dầu 61 xe) xích lô phục vụ du lịch, thuyền rồng (100 chiếc). Nhờ đó, khối lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách tăng nhanh qua các năm, hành khách luân chuyển tăng bình quân 3,1%/năm, khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 13,1%/năm.
Cơ sở hạ tầng giao thông được phát triển mạnh cả ở đô thị và nông thôn, phá thế cô lập ở các vùng núi và ven biển. Đã đầu tư nâng cấp và xây mới các trục đường chính: mở rộng cửa ngõ Bắc - Nam, xây mới các tuyến vành đai thành phố, các tuyến giao thông nội thị, đường Tự Đức - Thuỷ Dương, cảng Chân Mây, cảng cá Thuận An, các cầu Chợ Dinh, Trường Hà, Hoà Xuân, mở cửa khẩu Hồng Vân - Cu Tai, A Đớt - Tà Vàng... Đã phối hợp với các đơn vị Trung ương hoàn thành công trình hầm đèo Hải Vân, đường Hồ Chí Minh, đường phía Tây thành phố Huế, cầu Tuần, sân bay Phú Bài... Nhiều địa phương đã phát huy tốt nội lực, cơ bản hoàn thành nhựa hoá đường tỉnh lộ, bê tông hoá 70% đường giao thông nông thôn.
Tuy ngành giao thông đã có nhiều bước phát triển, hỗ trợ tích cực cho các ngành dịch vụ khác nhưng do tổ chức doanh nghiệp vận tải quy mô còn nhỏ, trang thiết bị quản lý thô sơ nên việc điều hành chưa đạt hiệu quả cao. Dịch vụ xe buýt vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả, lượng hành khách đi lại bằng xe buýt chưa tăng theo mong đợi. Công tác đầu tư các tuyến mới tại khu dân cư còn chậm. Chi phí cho dịch vụ cảng biển còn cao. Các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động cảng biển cần được cải cách cho đúng thông lệ quốc tế (GATT).
3. Thương mại:
Hoạt động thương mại có nhiều khởi sắc. Thị trường nội địa được khai thác có hiệu quả, hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng và phong phú về hàng hoá, dịch vụ cho đời sống. Việc tiêu thụ sản phẩm đã phục vụ đắc lực sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước trên địa bàn.
Mạng lưới Thương mại phát triển rộng khắp từ thành thị đến các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đã cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng bình quân giai đoạn 2001-2005 là 16,1% năm.
Công tác xúc tiến, thông tin thương mại có tiến bộ, tổ chức nhiều đợt hội chợ triển lãm như: Hội chợ Thương mại Thái - Lào - Việt, Hội chợ triển lãm thành tựu 30 năm phát triển kinh tế - xã hội Thừa Thiên Huế… thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia và sự quan tâm của người tiêu dùng.
Về đầu tư hạ tầng phục vụ thương mại, nhiều công trình quan trọng phục vụ phát triển lưu thông hàng hoá trên địa bàn tỉnh như mạng lưới chợ ở thành thị và nông thôn, hệ thống siêu thị (siêu thị Bắc Trường Tiền), trung tâm thương mại (TTTM Phong Phú Plaza, TTTM đường Hà Nội), chợ Đầu mối Phú Hậu, Chợ Đầu mối nông lâm sản Bình Điền đang từng bước triển khai xây dựng. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành thương mại tỉnh trong thời gian qua đã được củng cố và phát triển đáng kể, thực hiện cả hai chức năng bán buôn và bán lẻ, nguồn hàng phong phú đa dạng đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng hầu hết các địa bàn. Hệ thống mạng lưới chợ hiện có 156 chợ hoạt động rộng khắp trên tất cả các địa bàn, đảm bảo đầy đủ cho nhu cầu lưu thông hàng hoá và phục vụ đời sống của dân cư.
Hoạt động xuất khẩu từng bước được phục hồi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá như khoáng sản, sợi, dệt may, dăm gỗ, mộc mỹ nghệ, hàng nông sản,… Nhóm hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
Tuy nhiên, hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn còn một số hạn chế nhất định: hoạt động bán buôn chưa được tổ chức thành các trung tâm giao dịch lớn, hiện đại. Đa phần việc giao lưu hàng hoá được thực hiện ở các chợ, mô hình chợ siêu thị có trình độ văn minh thương mại cao phát triển chậm, chưa tạo điều kiện thúc đẩy và hỗ trợ sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Dịch vụ thương mại tăng nhanh nhưng mang tính tự phát, phân tán, quy mô nhỏ, vốn ít, mua bán qua nhiều tầng nấc trung gian. Chưa thiết lập được mối liên hệ lâu dài giữa sản xuất với lưu thông, giữa bán buôn và bán lẻ theo những kênh lưu thông hợp lý, ổn định, đặc biệt là việc bán vật tư nông nghiệp, mua nông sản, thực phẩm để tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá.
Việc triển khai xây dựng Trung tâm hội chợ triễn lãm có quy mô lớn còn chậm làm ảnh hưởng đến công tác quảng bá tiếp thị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của thành phố. Đội ngũ làm công tác xúc tiến thương mại còn thiếu và yếu về kỹ năng chuyên môn.
Hoạt động xuất khẩu chưa định hình được mặt hàng xuất khẩu chủ lực, yếu cả về năng lực sản xuất và đội ngũ doanh nhân, năng lực hội nhập vào thị trường quốc tế; nhiều ngành nghề thủ công truyền thống nổi tiếng bị mai một chậm phục hồi; giá trị hàng xuất khẩu mặc dù năm 2005 vượt kế hoạch nhưng tính cả thời kỳ không đạt chỉ tiêu đề ra, bình quân hàng năm chỉ tăng 13,1% so kế hoạch tăng từ 14 - 15%/năm.
4. Bưu chính - viễn thông:
- Về viễn thông:
Cơ sở vật chất của ngành viễn thông đã phát triển, góp phần phát triển mạnh hệ thống thông tin liên lạc, nhất là điện thoại. Đến cuối năm 2005, số máy điện thoại cố định đạt 89.800 máy, mật độ 7,91 máy/100 dân; số điện thoại di động đạt 67.300 máy, mật độ 5,93 máy/100 dân. Tổng hai loại điện thoại đạt mật độ 13,8/100 dân. Điện thoại vô tuyến nội thị (cityphone) VP Telecom đang được triển khai. Truyền thanh và truyền hình phủ sóng khắp địa bàn tỉnh, ngoài 4 kênh chương trình truyền hình của HVTV và TRT còn có các dịch vụ truyền hình số vệ tinh, số mặt đất, truyền hình cáp. Trạm truyền thanh và truyền hình ở các huyện cũng phát huy tốt chức năng truyền thông trên địa bàn.
- Về bưu chính:
Mạng bưu chính phát triển nhanh, điểm “bưu điện văn hoá xã” tăng từ 60 điểm (năm 2000) lên 109 điểm (năm 2005). Mật độ đạt 5000 dân/1 điểm bưu điện ở nông thôn; thành phố Huế 2000 dân/1 điểm bưu điện; 100% số xã, phường, thị trấn có báo đọc hàng ngày. Hiện nay, trên địa bàn có 6 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính.
- Về công nghệ thông tin:
Dịch vụ Internet và các ứng dụng CNTT như dịch vụ thư điện tử (e-mail) và dịch vụ Web phát triển mạnh mẽ. Số thuê bao Internet các loại là 4911, trong đó ADSL có 596 thuê bao. Mật độ thuê bao Internet/100 dân là 0,438. Số điểm Internet công cộng là 230 điểm. Đã thực hiện tin học hoá 100% trường trung học phổ thông, xây dựng ở tám huyện và thành phố Huế cổng giao tiếp điện tử.
Mặc dù dịch vụ bưu chính viễn thông đã có bước phát triển khá, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của người sử dụng. Chất lượng dịch vụ điện thoại công cộng chưa tốt, đặc biệt trong những dịp lễ hoặc trong giờ cao điểm.
Hoạt động sản xuất và kinh doanh phần mềm chưa sôi động. Công tác đào tạo tuy được chú trọng từ phổ cập cơ bản đến lập trình chuyên sâu nhưng chất lượng nguồn nhân lực công nghệ phần mềm còn hạn chế; khâu đào tạo trong lĩnh vực này chưa thu hút mạnh sự tham gia của các thành phần kinh tế. Chưa có sự liên kết đồng bộ giữa cơ quan nghiên cứu khoa học, các doanh nghiệp và chính quyền tỉnh để xác định các sản phẩm chủ lực của ngành công nghệ thông tin và định hướng đào tạo chuyên viên công nghệ thông tin nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển nhanh, thâm nhập thị trường quốc gia và quốc tế.
Tình hình hạ tầng CNTT đầu tư còn nhỏ lẻ, chưa đồng bộ. Hạ tầng CNTT của các đơn vị đều dựa trên các quy định của Ban Điều hành 112 của Chính phủ, chỉ mới ở giai đoạn tin học hoá công việc quản lý nội bộ và văn phòng.
5. Tài chính – ngân hàng:
Hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng tiến bộ rõ rệt với sự ra đời và phát triển của nhiều loại hình dịch vụ. Ngoài các hoạt động dịch vụ truyền thống do doanh nghiệp nhà nước kinh doanh như xổ số, đến nay đã hình thành nhiều dịch vụ tài chính như dịch vụ tài chính công, tư vấn, thẩm định giá với nhiều sản phẩm đa dạng.
- Hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển, nâng cao chất lượng phục vụ ngân hàng. Một số dịch vụ ngân hàng hiện đại đã triển khai ứng dụng trong thực tế (chuyển tiền điện tử, máy ATM,...). Các ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể về qui mô hoạt động, thể chế tài chính, công nghệ, quản trị điều hành tài chính tín dụng.
Hệ thống các tổ chức tín dụng được mở rộng với 8 Chi nhánh TCTD cấp I, 31 chi nhánh Cấp II, Cấp III trực thuộc; 1 tổ chức tín dụng cho vay ngoài địa bàn trực thuộc NHTMCP Đông Á và 7 Quỹ tín dụng nhân dân. Hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn đã thực hiện tốt vai trò huy động vốn và cho vay vốn đầu tư phát triển kinh tế. Huy động vốn tại chỗ qua các năm và dư nợ cho vay tăng trưởng với tốc độ cao 20%/năm. Hệ thống ngân hàng đã huy động và cho vay một khối lượng vốn lớn, đáp ứng cơ bản nhu cầu của nền kinh tế, hỗ trợ vốn cho các ngành nghề, các loại hình kinh tế và các dự án, đặc biệt là các dự án trọng điểm góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH – HĐH và xoá đói giảm nghèo của địa phương.
Tuy nhiên, dịch vụ tài chính vẫn thiếu sự đồng bộ, chưa đa dạng phong phú về loại hình. Nhiều dịch vụ tài chính chưa phát triển như dịch vụ kế toán, kiểm toán, thông tin thị trường, cho thuê tài chính, dịch vụ tư vấn tài chính,... Dịch vụ thẩm định giá, đấu giá mặc dù có nhiều hoạt động sôi nổi nhưng chủ yếu chỉ trong phạm vi các doanh nghiệp nhà nước, chưa mở rộng phạm vi tư vấn cho các thành phần kinh tế khác.
Dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, chất lượng chưa cao. Các dịch vụ ngân hàng do các Chi nhánh TCTD cung ứng hầu hết là dịch vụ ngân hàng truyền thống, chủ yếu là đi vay để cho vay và thanh toán. Huy động vốn dưới dạng tiền gửi chiếm tỷ trọng đến trên 80%. Phương thức giao dịch và cung cấp dịch vụ ngân hàng chủ yếu là tiếp xúc trực tiếp; các hình thức giao dịch từ xa chưa phổ biến. Nhiều dịch vụ ngân hàng có tiềm năng chưa được triển khai như dịch vụ tài khoản, quản lý tài sản...
6. Y tế:
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, y tế được phân định giữa y tế phục vụ và y tế dịch vụ.
Về y tế phục vụ, công tác khám, chữa bệnh ngày tốt hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế triển khai có kết quả, công tác phòng, chống HIV/AIDS và ngăn chặn các bệnh dịch nguy hiểm được quan tâm. Hệ thống y tế công lập của tỉnh đang tiếp tục củng cố phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ y tế. Hệ thống y tế đã được tổ chức xuống tận thôn bản, tổ dân phố cung cấp toàn bộ dịch vụ y tế dự phòng và phần lớn các dịch vụ khám chữa bệnh.
Hệ thống trạm y tế xã phường được nâng cấp từ nguồn ngân sách nhà nước cũng như nguồn hỗ trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ. Đến năm 2005, toàn tỉnh có 35 trạm y tế được tầng hoá, 100% trạm y tế xã có bác sĩ, 51/150 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 97,5% thôn bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động. Bệnh viện Trung ương Huế có quy mô 1.200 giường, đang tiếp tục phát triển về quy mô và chất lượng, đã hoàn thiện cơ sở khám chữa bệnh chất lượng cao như Khoa nhi và đang xây dựng Trung tâm tim mạch, trung tâm huyết học truyền máu,… Bệnh viện trường Đại học Y khoa có quy mô 300 giường. Hai bệnh viện này đã nâng cao chất lượng khám chữa bệnh trong các lĩnh vực kỹ thuật cao như: mổ não bằng dao gama, mổ tim hở, ghép tủy, ghép thận, nối bắc cầu động mạch vành; phẫu thuật nội soi trong các lĩnh vực tiêu hóa, tiết niệu, sản phụ khoa...
Về y tế dịch vụ, trong những năm gần đây đang có những chuyển biến đáng kể theo hướng xem sức khoẻ như là một loại hàng hoá đặc biệt, đa dạng loại hình dịch vụ, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, ngoài mạng lưới y tế công lập từ tỉnh đến cơ sở còn có các loại hình y tế ngoài công lập. Toàn tỉnh có 485 cơ sở hành nghề dược tư nhân, trong đó: Tây y 198 cơ sở, Y học cổ truyền 135 cơ sở, cơ sở hành nghề dược 152 cơ sở. Ngoài ra còn có 12 cơ sở khám chữa bệnh của các tổ chức từ thiện xã hội, 7 cơ sở vật lý trị liệu. Hiện nay, một Bệnh viện tư nhân Chấn thương chỉnh hình và tạo hình thẩm mỹ 21 giường đang được hoàn thiện để đưa vào sử dụng.
Tuy nhiên, dịch vụ y tế tỉnh vẫn chưa phân định rạch ròi giữa y tế phục vụ và y tế dịch vụ. Việc xã hội hoá trong lĩnh vực y tế còn chậm, các bệnh viện, cơ sở y tế ngoài công lập qui mô nhỏ, chủ yếu mới cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh thông thường, chất lượng dịch vụ chưa cao, phân bố không đều tập trung chủ yếu ở thành phố Huế và các huyện vùng ven thành phố. Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư cho y tế ngoài công lập quá hạn chế nên đến nay vẫn chưa có cơ sở nào thật sự có thể cạnh tranh, phá vỡ thế độc quyền của các cơ sở y tế công lập lớn trên địa bàn tỉnh. Đến nay vẫn chưa có bệnh viện đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm cung cấp dịch vụ y tế cho bệnh nhân có thu nhập cao, bệnh nhân nước ngoài, tăng nguồn thu ngoại tệ. Dịch vụ y tế chưa phối hợp tốt với dịch vụ du lịch như: khám chữa bệnh, vận chuyển cấp cứu cho khách du lịch trong và ngoài nước.
7. Giáo dục – đào tạo:
Do có đặc thù là thực hiện phúc lợi, giáo dục của ta vốn có "lịch sử" là Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Trong cơ chế thị trường ngày nay, vẫn còn nhiều tranh cãi trong việc phát triển giáo dục theo hướng dịch vụ phát triển bao nhiêu là đủ để đảm bảo công bằng xã hội, trong đó trước hết chăm lo phát triển giáo dục công cho mọi người học hết phổ thông, học được nghề hay đại học. Tuy nhiên, sứ mạng của giáo dục thời kỳ hội nhập không còn là xóa mù hay phổ cập mà là cung cấp nền giáo dục có chất lượng cao. Thực tế đã chứng minh, bên cạnh số lượng học sinh du học ngày càng tăng, các trường quốc tế và các chương trình quốc tế mở tại Việt Nam cũng thu hút rất nhiều học sinh tham gia.
Trong xu thế vận động đó, ngành giáo dục tỉnh có bước vận động theo hướng xã hội hoá rõ nét hơn. Hiện nay, ngoài hệ thống trường công lập, cũng đã hình thành các loại hình trường ngoài công lập như trường bán công, dân lập. Các trường lớp ngoài công lập có bước phát triển khá hơn so với trước. Toàn tỉnh hiện có 150 trường mầm non bán công và dân lập/175 trường mầm non, THPT có 11/38 trường, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có 1/6 trường, Đại học có 1/8 trường. Ở bậc tiểu học và cấp trung học cơ sở do đang thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục nên chưa có trường ngoài công lập.
Số các cháu vào nhà trẻ ngoài công lập chiếm 70,3%, vào mẫu giáo ngoài công lập chiếm 73,3% so với tổng số cháu mẫu giáo. Cấp trung học phổ thông có (03 trường bán công, 06 trung tâm KTTH - HN và GDTX có lớp bán công, 02 trường dân lập) với 9.195 học sinh, chiếm 21,6% so với tổng số học sinh phổ thông, học sinh cấp trung học chuyên nghiệp 750 học sinh, chiếm 13,6%.
Tuy nhiên, dịch vụ giáo dục phát triển còn dè dặt. Mạng lưới trường lớp, học sinh ngoài công lập có phát triển nhưng còn chậm so với yêu cầu. Việc thành lập các trường ngoài công lập còn hạn chế, cơ sở vật chất trang thiết bị chưa đầy đủ để đảm bảo chất lượng dạy và học, do đó dẫn đến tình trạng một số cơ sở ngoài công lập chậm phát triển về quy mô, hàng năm không tuyển đủ chỉ tiêu được giao. Dịch vụ giáo dục mầm non vẫn chưa phát triển mạnh, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Sở hữu và mô hình các trường mầm non theo hướng xã hội hoá chưa rõ; chưa phân biệt rạch ròi giữa các trường mầm non dân lập, tư thục, bán công.
Việc tồn tại các lớp bán công trong các Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp hoặc các trung tâm giáo dục thường xuyên cũng xuất hiện không ít khó khăn cho việc quản lý, nhất là tư cách pháp nhân, quản lý tài chính, tài sản, giáo viên và ảnh hưởng đến việc phát triển trường ngoài công lập.
Chất lượng đầu vào của các trường ngoài công lập trên địa bàn nói chung thấp hơn so với các cơ sở công lập. Trên địa bàn tỉnh vẫn chưa xây dựng được trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ giáo dục chất lượng cao trong khi ngành giáo dục đủ khả năng xây dựng một trường học tiên tiến.
8. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp mặc dù có nhiều khó khăn do khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên đe dọa làm ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được kết quả khả quan. An ninh lương thực được đảm bảo, cơ cấu cây trồng chuyển đổi theo hướng phát triển một số cây công nghiệp tập trung, tạo vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, chăn nuôi phát triển theo hướng công nghiệp, đảm bảo hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp.
Hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp chủ yếu dựa vào một số công ty vốn nhà nước chiếm chủ yếu như: Công ty Giống cây trồng và vật nuôi tỉnh, công ty Vật tư Nông nghiệp... Về sản xuất và cung ứng giống lúa, Công ty Giống cây trồng và vật nuôi tỉnh đã cung ứng cho các HTX và bà con nông dân từ 1.400 tấn đến 1.500 tấn giống lúa hàng năm. Công ty cũng đảm bảo cung ứng đủ cho nhu cầu sản xuất các loại giống cây trồng khác như sắn công nghiệp, lạc, ngô... Phân bón do Công ty Vật tư Nông nghiệp cung cấp đã góp phần đảm bảo lượng phân cho nông nghiệp tỉnh. Về thuỷ nông, công ty Quản lý KT công trình thuỷ lợi tỉnh đã đảm bảo dịch vụ tưới tiêu cho 14.600 ha lúa và tiêu 13.267 ha. Các đơn vị lâm nghiệp hàng năm sản xuất khoảng 10 triệu giống cây lâm nghiệp phục vụ cho chương trình trồng rừng và phòng hộ. Hệ thống thú y ngày nay được củng cố và phát triển, góp phần đảm bảo an toàn dịch bệnh cho vật nuôi, bảo vệ sản xuất và chiếm được sự tin tưởng của bà con nông dân và doanh nghiệp. Về thuỷ sản, chủ yếu dịch vụ cung cấp bởi Trung tâm giống mặn, lợ, Trung tâm giống nước ngọt và cảng cá Thuận An. Cơ bản các đơn vị này đã đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ thuỷ sản như cung ứng và vận chuyển giống thuỷ sản, thức ăn, thuốc thú y thuỷ sản, dịch vụ bến bãi, sản phẩm hải sản qua cảng, vận chuyển qua cảng, sửa chữa tàu cá, cung ứng xăng dầu, vật tư phục vụ nghề cá, kho bảo quản. Bước đầu đã hình thành dịch vụ phục vụ cho công tác thủy lợi, nuôi trồng thủy sản (cung cấp điện, nước; tư vấn kỹ thuật, tiêu thụ hàng thủy sản)
9. Hành chính công:
Theo báo cáo của Dự án Hỗ trợ cải cách hành chính Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), dịch vụ hành chính công là một trong năm lĩnh vực của dịch vụ công và có cùng ưu nhược điểm của dịch vụ công - một trong ba chức năng cơ bản của bộ máy hành chính nhà nước. Tuy nhiên, ngay cả ở những nước có nền hành chính phát triển, thì những câu hỏi then chốt như dịch vụ công bao gồm những lĩnh vực nào và bộ máy hành chính nên cung cấp dịch vụ công như thế nào... không phải bao giờ cũng có câu trả lời thống nhất. Đối với Việt Nam, đất nước có nhiều năm tồn tại một nền hành chính tập trung mà trong đó các chức năng quản lý và phục vụ không có sự tách bạch rõ ràng, thì đây lại càng là một vấn đề rất đáng lưu tâm.
Ở địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, dịch vụ hành chính công đã đóng góp rất lớn trong việc hỗ trợ tích cực để tạo nên một cơ chế tự động trong quản lý, kiểm soát công việc và con người, qua đó thúc đẩy cả hệ thống làm việc đồng bộ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công, giải phóng người lãnh đạo khỏi nhiều công việc sự vụ.
Dịch vụ hành chính công được triển khai tại một số cơ quan hành chính đã góp phần làm tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng phục vụ công chúng, hạn chế tình trạng phiền hà, nhũng nhiễu và mối quan hệ trong giải quyết công việc giữa các bộ phận trong quy trình chặt chẽ và đồng bộ hơn. Dịch vụ hành chính công chủ yếu ở các lĩnh vực tài nguyên môi trường, dịch thuật công chứng, pháp lý, bản quyền...
Tuy nhiên, dịch vụ hành chính công vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế và sự đòi hỏi từ thực tế cuộc sống. Một phần do đội ngũ nhân viên còn thiếu nên một số dịch vụ hành chính công gặp phải tình trạng quá tải. Mặt khác, hệ thống dịch vụ hành chính công phụ thuộc nhiều vào các công chức, những người trực tiếp vận hành, xử lý công việc. Do vậy, để đạt hiệu quả cao, cần có những công chức có kiến thức, kỹ năng làm việc phù hợp với nhiệm vụ được giao, có tinh thần trách nhiệm và tính kỷ luật cao, thân thiện với khách hàng, tâm huyết với công việc, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến khách hàng.
10. Bảo hiểm:
Với việc mở cửa thị trường bảo hiểm từ rất sớm, Chính phủ Việt Nam được đánh giá là tương đối cởi mở trong việc cho phép các nhà cung cấp nước ngoài tham gia thị trường. Tính đến ngày 31/12/2005 trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có tổng cộng 32 doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm tiến hành hoạt động kinh doanh cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho thị trường. Đối với lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ có 16 doanh nghiệp, trong đó có 2 doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, 6 doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm; 3 DNBH 100% vốn nước ngoài; 5 doanh nghiệp liên doanh bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ có 8 doanh nghiệp, trong đó có 1 DNBH nhà nước, 1 doanh nghiệp liên doanh và 6 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm có 7 doanh nghiệp, trong đó có 4 doanh nghiệp cổ phần và 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp tái bảo hiểm có 1 doanh nghiệp, đó là Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare).
Đối với địa bàn Tỉnh, dịch vụ bảo hiểm trong những năm gần đây phát triển mạnh mẽ. Tuy không có con số cụ thể về doanh thu của các công ty bảo hiểm khai thác được trên địa bàn tỉnh do doanh số đều do các tổng công ty quản lý nhưng nhìn chung Thừa Thiên Huế là một thị trường đầy tiềm năng. Hiện nay, trên địa bàn có 11 công ty bảo hiểm, trong đó có ba công ty nước ngoài là Prudential, AIA Huế và Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Bảo Minh CMG. Loại hình sản phẩm bảo hiểm chủ yếu là bảo hiểm xe cơ giới, con người, tài sản và kỹ thuật, hàng hải…
11. Văn hoá:
- Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn: Toàn tỉnh có 2 nhà hát nghệ thuật chuyên nghiệp, gồm các loại hình: múa Cung đình, Tuồng Ca kịch, nhạc Cung đình. Mỗi năm biểu diễn 700 buổi ca Huế trên sông Hương.
- Lĩnh vực mỹ thuật: có 15 đơn vị Quảng cáo và 30 Gallery mỹ thuật tư nhân.
- Lĩnh vực xuất bản in và phát hành sách: toàn tỉnh có 3 nhà sách đã và đang cổ phần hoá và 120 cửa hàng sách tư nhân. Ngoài ra còn có cơ sở in tư nhân.
- Lĩnh vực điện ảnh: Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng là đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó có 2 rạp và 4 đội chiếu bóng lưu động.
- Lĩnh vực thư viện: Thư viện Đại học Huế, thư viện tổng hợp tỉnh và 8 thư viện huyện đang từng bước đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung sách báo; 100 điểm bưu điện văn hoá xã, các xã, phường đều có tủ sách phục vụ cho công tác quản lý cấp xã, các trường học đều có hệ thống thư viện.
Ngoài ra, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ văn hoá, phần lớn do tư nhân đầu tư gồm có 200 cơ sở kinh doanh băng đĩa nhạc, 421 quán Karaoke, 3 vũ trường, 7 quán bar, 400 cơ sở dịch vụ internet, 60 cơ sở in lụa.
Tuy nhiên công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hoá còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành và chính quyền cấp cơ sở. Nhiều hoạt động như dịch vụ Karaoke cần được theo dõi chặt chẽ tránh xẩy ra tình trạng biến tướng phát sinh những hình thức không lành mạnh. Trong lĩnh vực dịch vụ Internet, nhiều đại lý chưa tuân thủ các quy định về pháp luật, để người sử dụng truy cập những thông tin không lành mạnh gây phương hại đến an ninh chính trị, bản sắc văn hoá.
12. Xuất khẩu lao động:
Hoạt động XKLĐ trong những năm qua có bước phát triển đáng kể. Phần lớn số lao động đi làm việc ở nước ngoài có việc làm ổn định, có thu nhập khá, góp phần ổn định và nâng cao đời sống gia đình. Công tác XKLĐ có bước tiến triển tốt, số LĐXK ngày càng tăng, thị trường lao động ít biến động, người lao động từng bước nắm bắt về thông tin XKLĐ, đăng ký tham gia đào tạo nghề, giáo dục định hướng,... Hiện nay, có 9 đơn vị trong và ngoài tỉnh tham gia tuyển lao động xuất khẩu trên địa bàn, trong đó Công ty Cổ phần cơ khí xuất khẩu lao động là đơn vị duy nhất thuộc tỉnh quản lý. Đến nay các đơn vị đã tuyển lao động, xuất khẩu được 2.423 người cho các thị trường Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Tuy nhiên, thị trường XKLĐ chưa đa dạng phong phú, chủ yếu vẫn là Đài Loan, Malaysia. Ngành nghề lao động chưa đa dạng, vẫn là lao động chăm sóc người bệnh, điện tử, may, chế biến gỗ... Một bộ phận lao động trình độ tay nghề chưa cao, thiếu hiểu biết phong tục tập quán pháp luật nước sở tại, trình độ ngoại ngữ kém làm hạn chế việc tiếp thu những tiến bộ công nghệ trong quá trình lao động. Nhìn chung, chất lượng lao động xuất khẩu thấp, chưa cạnh tranh được trên thị trường lao động khu vực và thế giới nên dễ bỏ lỡ nhiều cơ hội ký kết các hợp đồng có giá trị.
13. Thể dục thể thao:
Ngành thể dục thể thao đã có nhiều đóng góp tích cực trong phong trào rèn luyện thân thể rộng rãi trong nhân dân. Số người tập luyện TDTT thường xuyên đạt 18% dân số (tăng 8% so với năm 2000); có 9,1% số gia đình thể thao (tăng 2,1% so với năm 2000); 88% số trường học thực hiện giáo dục thể chất có nề nếp; 95% số cán bộ chiến sỹ trong lực lượng vũ trang đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Công tác giáo dục thể chất trong trường học được chú trọng.
Thể thao thành tích cao giữ được vị trí trong tốp đầu của các giải quốc gia với hơn 30 môn thể thao hiện đại được phát triển trong đó có 11 môn thể thao mũi nhọn, số vận động viên có đẳng cấp tăng 1,4 lần; trong đó có 04 VĐV kiện tướng quốc tế. Tại Seagames 22, đoàn thể thao của tỉnh đã đóng góp 6 huy chương vàng vào thành tích chung của cả nước. Đã tổ chức thành công Hội khoẻ Phù đổng toàn quốc lần thứ VI, toàn đoàn xếp thứ nhì với 174 huy chương, so kết quả xếp thứ 12/61 với 18 huy chương của năm 2000.
Công tác xã hội hoá TDTT có nhiều chuyển biến. Toàn tỉnh có 5 tổ chức Liên đoàn, 372 CLB, điểm tập luyện TDTT, góp phần làm phong phú phong trào TDTT toàn tỉnh. Các huyện và nhiều tổ chức, cá nhân đã mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu thể thao, rèn luyện sức khoẻ trong nhân dân.
14. Xây dựng:
Với sự ra đời của nhiều công ty tư vấn thiết kế, xây dựng và kinh doanh bất động sản, dịch vụ xây dựng có bước phát triển mạnh mẽ, góp phần to lớn trong việc chỉnh trang bộ mặt đô thị, đáp ứng nhu cầu ngày một cao về nhà ở, căn hộ, văn phòng cho thuê, khu tái định cư, nghĩa trang... của nhân dân. Nhiều chương trình được triển khai nhằm phát triển hạ tầng kỹ thuật, nhà ở như đề án quy hoạch hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn, hệ thống nghĩa trang, quy hoạch cấp thoát nước, chương trình phát triển nhà ở các khu đô thị...
15. Khoa học Công nghệ
Dịch vụ Khoa học công nghệ đang từng bước phát triển mặc dù vẫn chưa tạo nên hiệu quả kinh tế cao. Hàm lượng khoa học công nghệ tăng trưởng khá. Bước đầu hình thành một số dịch vụ như: hướng dẫn lắp đặt và vận hành các dây chuyền công nghệ được nhập khẩu từ bên ngoài vào địa phương sau khi được hội đồng thẩm định công nghệ tỉnh phê duyệt; các dịch vụ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; các dịch vụ về thông tin tư vấn KHCN, môi giới xúc tiến công nghệ...
16. Đối ngoại:
Dịch vụ đối ngoại của tỉnh ngày càng phát triển với nhiều hình thức như: tổ chức dịch vụ biên dịch, phiên dịch các thứ tiếng nước ngoài cho các tổ chức và cá nhân, các dự án hợp tác đầu tư hoặc kêu gọi viện trợ; Tổ chức và cung cấp các dịch vụ cho Hội nghị, Hội thảo có yếu tố nước ngoài; Tư vấn hướng dẫn cho các đối tượng có nhu cầu liên quan đến thủ tục xin cấp hộ chiếu, thị thực xuất cảnh , thị thực nhập cảnh, các thủ tục xin gia hạn tại Việt Nam.
PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAI ĐOẠN 2006-2010
Ngày 24/12/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Chỉ thị nêu rõ: trong kế hoạch năm 2005 và các năm 2006 - 2010, cần đặt cao vị trí và vai trò của khu vực dịch vụ; xem ngành dịch vụ là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước.
Mục tiêu đặt ra: Tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, kho bãi, chuyển tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bưu chính viễn thông, xây dựng, xuất khẩu lao động... khuyến khích phát triển dịch vụ mới có sức cạnh tranh cao; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn 2006 - 2010 cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành và nội ngành dịch vụ, tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP của cả nước, tiến tới đạt khoảng 45% vào năm 2010.
Nghị quyết đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII khẳng định vai trò đột phá của dịch vụ trong chiến lược tăng tốc của thời kỳ 2006 – 2010. Phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế so sánh, khai thác tốt mọi nguồn lực xã hội, quyết tâm tạo bứt phá mạnh mẽ, toàn diện về tăng trưởng kinh tế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế: DỊCH VỤ - CÔNG NGHIỆP - NÔNG NGHIỆP theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền đẩy nhanh quá trình đô thị hóa; chủ động, tích cực hội nhập, phát triển nhanh và bền vững.
Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010, Quyết định 148 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Quyết định số 209 của Thủ tướng Chính phủ công nhận Huế là đô thị loại I đã khẳng định vị thế và vai trò động lực của tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tuyến kinh tế hành lang Đông - Tây, với vị trí là một trung tâm thương mại - dịch vụ, giao dịch quốc tế; trung tâm du lịch quốc gia, trung tâm y tế chuyên sâu; trung tâm đào tạo đa ngành chất lượng cao của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ. Quyết định 04 của Thủ tướng Chính phủ thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Khu Kinh tế Chân Mây – Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đó là cơ hội lớn và điều kiện thuận lợi để Thừa Thiên Huế phát triển và hội nhập.
Để có sự ưu tiên nguồn lực đầu tư, trong năm năm tới chương trình tập trung phát triển 10 ngành dịch vụ sau: du lịch, giao thông vận tải, thương mại, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, y tế, giáo dục đào tạo, nông nghiệp, hành chính công, bảo hiểm. Các ngành dịch vụ còn lại được định hướng phát triển tại Phụ lục đính kèm.
I. Mục tiêu tổng quát:
Phát triển dịch vụ là nhiệm vụ đột phá, không những trước mắt mà còn cơ bản, lâu dài. Phát triển dịch vụ du lịch với tốc độ cao thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực chính thúc đẩy các lĩnh vực dịch vụ cùng phát triển. Ưu tiên phát triển các nhóm ngành: tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm, thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng; bưu chính - viễn thông - công nghệ thông tin; bất động sản; tư vấn, khoa học - công nghệ; y tế, giáo dục - đào tạo chất lượng cao, nhất là dịch vụ du lịch. Xây dựng Khu Kinh tế Chân Mây – Lăng Cô trở thành khu dịch vụ đa ngành năng động và chất lượng. Chuyển các hoạt động sự nghiệp công ích sang cơ chế dịch vụ, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nâng cấp cửa khẩu A Đớt, Hồng Vân thành cửa khẩu quốc gia và quốc tế, gắn xây dựng khu kinh tế cửa khẩu với trung tâm giao dịch ngoại thương; tập trung khai thác trục hành lang Đông - Tây, đường Hồ Chí Minh. Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, nhất là các trung tâm cụm xã, hình thành các chợ đầu mối. Xây dựng một số trung tâm thương mại, siêu thị hiện đại, mở rộng thị trường giao lưu hàng hóa trong và ngoài nước.
Phát huy tối đa lợi thế so sánh, tập trung xây dựng Huế trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước, thành phố Festival của Việt Nam. Khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, văn hoá. Xây dựng các dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao gắn với du lịch, có sức cạnh tranh với các trung tâm du lịch trong nước và khu vực. Tổ chức khai thác và mở rộng các “tour” du lịch sinh thái, du lịch làng nghề, du lịch lễ hội; tuyến du lịch trong vùng di sản, tuyến hành lang Đông - Tây, đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Tập trung đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng các khu du lịch trọng điểm: Bạch Mã - Cảnh Dương - Lăng Cô - Hải Vân - Sơn Chà. Có chính sách động viên các doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng dân cư phát triển du lịch. Nghiên cứu mở rộng liên doanh, liên kết với các nước trong khu vực và quốc tế để kêu gọi đầu tư và thiết lập các “tour”, tuyến, kể cả mở các văn phòng đại diện ngoại tỉnh và nước ngoài.
Các chỉ tiêu chủ yếu:
- Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 15%, trong đó ngành dịch vụ tăng 14% - 15,5%.
- Cơ cấu ngành dịch vụ đến năm 2010: 43% - 44,5% GDP.
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng bình quân hàng năm: 14%/năm.
- Đến năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 300 triệu USD.
- Khối lượng luân chuyển hàng hoá bình quân tăng 20%/năm.
- Vận tải hành khách tăng bình quân: 5% - 6%/năm.
- Doanh thu du lịch tăng trên 32,1%/năm.
- Đến năm 2010, số máy điện thoại thuê bao đạt 35 - 40 máy/100 dân.
- Đến năm 2010, số giường bệnh đạt 37 giường/10.000 dân.
- Số học sinh ngoài công lập hệ mầm non từ 75-85% (nhà trẻ 85%, mẫu giáo 75%), tiểu học 1,2- 1,5%, trung học cơ sở 3,5%, trung học phổ thông 40%, dạy nghề 30%, cao đẳng, đại học từ 30-40%.
- Tăng trưởng huy động vốn qua ngân hàng bình quân đạt: 15 – 20%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng dịch vụ KHCN đạt khoảng 20%/năm.
- Phấn đấu đến năm 2010, 100% đơn vị công lập thuộc ngành thể dục thể thao chuyển sang dịch vụ công.
- Xuất khẩu lao động đạt 10.000 – 13.000 lao động, mỗi năm bình quân 2000 - 2500 lao động.
* Mục tiêu:
Quy hoạch chi tiết các khu du lịch; Đẩy nhanh tốc độ quy hoạch ngành; Xây dựng hình ảnh du lịch Thừa Thiên Huế, xứng đáng là một điểm đến hấp dẫn, một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Khuyến khích các thành phần kinh tế đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch dịch vụ. Gắn nhiệm vụ mở mang du lịch với phát triển làng nghề, phát triển văn hóa, thể thao, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và công tác bảo vệ môi trường; Gắn đổi mới hoạt động du lịch với nâng cao chất lượng các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, ngân hàng, hải quan, bảo hiểm, y tế, giáo dục... Ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Đến năm 2010 thu hút 2 - 2,5 triệu lượt khách du lịch, trong đó khách quốc tế 1 triệu lượt, khách nội địa 1,5 triệu lượt.
- Lượt khách bình quân tăng 19%/năm.
- Doanh thu du lịch tăng trên 32,1%/năm, thời gian lưu trú đạt trên 2 ngày.
* Nhiệm vụ:
1.1 Về phát triển dịch vụ lưu trú:
Để đáp ứng mục tiêu đón và phục vụ từ 2 đến 2,5 triệu lượt khách vào năm 2010, phấn đấu đến năm 2010 toàn ngành có hơn 7000 phòng ngủ đạt tiêu chuẩn, trong đó trên 50% được xếp hạng 3 - 5 sao. Đôn đốc tiến độ xây dựng, sớm đưa vào khai thác sử dụng các cơ sở lưu trú ở các địa bàn trọng điểm như Thành phố Huế và các vùng phụ cận, Khu Du lịch Lăng Cô, Bạch Mã, khu vực A Lưới,... nhằm đáp ứng đủ nhu cầu khách du lịch đến Huế ngày một tăng.
1.2 Về hoạt động lữ hành, hướng dẫn và phát triển sản phẩm du lịch:
Nâng cao năng lực tổ chức và chất lượng hoạt động của các đơn vị lữ hành, phát triển các doanh nghiệp có chức năng lữ hành quốc tế; Phấn đấu đến năm 2010 khách do các đơn vị lữ hành trực tiếp khai thác đạt 150 ngàn lượt khách.
Nâng cao chất lượng các hoạt động trong Festival, chú trọng các hoạt động văn hóa cộng đồng và tính chuyên nghiệp trong tổ chức để hình thành các Festival có quy mô lớn, dài ngày nhằm thúc đẩy, mở rộng giao lưu hợp tác văn hóa và kinh tế với các địa phương trong cả nước và các dân tộc trên thế giới.
Nâng cao chất lượng hướng dẫn viên và giải quyết tình trạng thiếu hướng dẫn viên ngoại ngữ. Đào tạo và phát triển lực lượng hướng dẫn viên cho các thị trường nhiều tiềm năng như Thái Lan, Tây Ban Nha, Ý, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản... đặc biệt là đối với thị trường Nhật và Trung Quốc.
Nâng cao kỹ năng và chất lượng công nghệ tổ chức hội nghị, thu hút các hội nghị, hội thảo quốc gia và quốc tế, hình thành loại hình du lịch hội nghị, triển lãm - hội chợ.
Phát huy giá trị các tour du lịch nhà vườn, Huế xanh, chợ quê, làng cổ Phước Tích, đầu tư xây dựng cụm điểm du lịch cồn Hến, cồn Dã Viên, hình thành các tour du lịch trên sông Ngự Hà, thăm Thượng Thành, tour du lịch tổng hợp giải trí thể thao biển Cảnh Dương - Hải Vân - Đảo Sơn Chà, tour du lịch về lại chiến trường xưa; du lịch lễ hội “Lăng Cô - Huyền thoại biển“, lễ hội Festival; khai thác du lịch sinh thái trên đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, rừng ngập mặn; phát triển du lịch nghỉ dưỡng, du lịch điều trị và tham quan, cắm trại, mua sắm, ẩm thực,... Khai thác và phát huy các giá trị nghệ thuật truyền thống Huế, phục hồi lễ hội dân gian và tôn giáo đặc sắc, khôi phục các làng nghề và lễ hội nghề truyền thống, hình thành các tháng du lịch lễ hội, du lịch làng nghề, phát triển các hoạt động du lịch chuyên đề.
Phát huy lợi thế, khai thác có hiệu quả tiềm năng của địa phương. Mở rộng liên kết giữa các địa phương, vùng và hợp tác quốc tế để xây dựng các chương trình du lịch độc đáo, hấp dẫn và có khả năng cạnh tranh cao. Xây dựng các tour du lịch liên vùng như tour khai thác các “di sản thế giới”, du lịch đường Hồ Chí Minh; hình thành tour du lịch hành lang Đông - Tây, du lịch các Cố đô di sản thế giới khu vực ASEAN...
1.3 Về dịch vụ thương mại du lịch:
Nâng cao chất lượng phục vụ của hệ thống nhà hàng, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các nhà hàng chất lượng cao, hoàn chỉnh đề án xây dựng phố ẩm thực chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới tổ chức Festival ẩm thực quốc tế trong các kỳ Festival Huế.
Xây dựng phố mua sắm, phố ẩm thực, khu trưng bày quảng cáo hàng thủ công mỹ nghệ, hoàn thành sớm các khu vui chơi, giải trí Thuỷ Tiên, Ngự Bình và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tổ chức kinh doanh đa dạng các loại hàng hoá, thực hiện mục tiêu xã hội hoá các hoạt động dịch vụ du lịch, đẩy nhanh công tác xuất khẩu tại chỗ, tăng chi tiêu và thời gian lưu trú của khách du lịch.
2. Giao thông vận tải:
* Mục tiêu:
Hoàn thiện các tuyến đường giao thông đối nội và đối ngoại ở cả ba vùng, ưu tiên những tuyến đường phục vụ phát triển đột phá cho những ngành kinh tế mũi nhọn. Tiếp tục nâng cấp và phát triển phương tiện vận tải, bãi đỗ xe ô tô. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư hơn nữa. Phát triển công nghiệp sửa chữa ô tô, phương tiện vận tải tàu thuỷ, đáp ứng nhu cầu về dịch vụ giao thông vận tải.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Đến năm 2010 có khoảng 350 xe khách phục vụ 35 tuyến liên tỉnh, 30 xe buýt, 300 xe taxi phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Để phục vụ khách tham quan du lịch, có khoảng 250 xe khách vận tải theo hợp đồng. 100% khu, cụm công nghiệp có tuyến xe buýt.
- Nâng cấp sân bay Phú Bài thành sân bay quốc tế để đón được máy bay cỡ lớn B767 hoặc tương đương, phấn đấu đạt công suất 1 triệu lượt khách/năm và 50 ngàn tấn hàng hoá vào năm 2010; đạt 2 triệu lượt khách và 100.000 tấn hàng hoá vào năm 2020.
- Cảng Chân Mây đầu tư thêm cầu cảng số 2 và cầu cảng số 3 để đạt công suất 2,3 triệu tấn/năm vào năm 2010 và đạt 5 triệu tấn/năm vào năm 2020. Tiếp tục nâng cấp cảng Thuận An đến năm 2010 tàu có trọng tải 5000 tấn có thể vào được, đạt công suất 500.000 tấn/năm.
* Nhiệm vụ:
Thu hút vốn đầu tư và đa dạng hoá loại hình vận chuyển đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hoá chất lượng cao; hình thành các công ty vận chuyển có chất lượng, đặc biệt là công ty liên doanh vận tải quốc tế hành lang Đông – Tây, vận tải liên vùng liên tỉnh; phát triển mạnh các phương tiện vận chuyển công cộng; chấn chỉnh hoạt động và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ vận chuyển du lịch khác như tàu thuỷ, thuyền, xe ngựa...
Nâng cao chất lượng các dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá, nhất là dịch vụ vận tải kết nối các điểm du lịch, các trung tâm đô thị; phát triển nhanh dịch vụ vận tải hàng hải, nghiên cứu để có đội thuyền mạnh hoạt động ở cảng Chân Mây, khai thác có hiệu quả Sân bay Phú Bài, cảng và Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô. Cải tạo, nâng cấp cơ sở vất chất phục vụ giao thông vận tải đường bộ. Hình thành bến xe liên tỉnh ở phía Bắc tại Tứ Hạ. Đầu tư xây dựng đồng bộ, đúng quy chuẩn các bến thuyền Toà Khâm, bến số 5 Lê Lợi để đáp ứng nhu cầu khách du lịch trên sông. Đầu tư các loại thuyền du lịch có chất lượng cao, các loại xe du lịch kết hợp nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch.
3. Thương mại:
* Mục tiêu:
Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm trung chuyển hàng hoá Bắc Nam, trung tâm giao dịch, thương mại, cung cấp dịch vụ trên tuyến Hành lang Đông Tây, của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Phát triển các trung tâm thương mại dịch vụ lớn ở Huế, Chân Mây, Phú Bài, Tứ Hạ... Xây dựng khu kinh tế cửa khẩu A Đớt -Tà Vàng, Hồng Vân -Cu Tai thành trung tâm giao dịch, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại với Lào và khai thác trục hành lang Đông - Tây.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng bình quân 14%/năm.
- Giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đạt 300 triệu USD vào năm 2010, gấp 5,3 lần so năm 2005; Tốc độ tăng bình quân 39,4%/năm.
- Giá trị hàng hóa nhập khẩu tăng bình quân 15 - 20%/năm.
* Nhiệm vụ:
Củng cố và phát triển hệ thống các trung tâm thương mại ở các thị trấn, thị tứ. Phát triển hệ thống phân phối hàng hoá dịch vụ theo hướng kết hợp giữa phương thức phân phối truyền thống với hiện đại, tạo sự liên kết giữa sản xuất và dịch vụ, giữa các tổ chức nắm giữ và phân phối nguồn lực, giữa các địa bàn đô thị và nông thôn nhằm mở rộng thị trường giao lưu hàng hoá và dịch vụ trong và ngoài nước. Hình thành các chợ đầu mối Phú Hậu, Sịa, Bình Điền, La Sơn. Ưu tiên phát triển chợ ở các khu vực Trung tâm cụm xã thuộc hai huyện Nam Đông, A Lưới gắn với yêu cầu giao lưu văn hóa của đồng bào dân tộc; phát triển chợ trung tâm tiểu vùng các xã vùng gò đồi, đầm phá, ven biển, các khu dân cư mới.
Tăng cường công tác quản lý chợ theo qui hoạch, sắp xếp đổi mới bộ máy quản lý chợ theo hướng hình thành các doanh nghiệp.
Từng bước mở rộng và phát triển lưu thông hàng hoá trên thị trường của tỉnh và mở rộng thị trường ra các tỉnh lân cận cũng như thị trường ngoài nước. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, nâng cao chất lượng, tăng tỷ lệ chế biến sâu các mặt hàng xuất khẩu có quy mô lớn như khoáng sản, thuỷ hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may, nguyên liệu giấy, nông sản,… Tổ chức nguồn hàng xuất khẩu mới, chú trọng xuất khẩu tại chỗ thông qua hoạt động du lịch, xuất khẩu dịch vụ.
Phát triển mạnh các dịch vụ ngành thương mại như: logictis, quá cảnh hàng hoá, cho thuê, nhượng quyền thương mại... nhằm phục vụ tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu.
4. Bưu chính - viễn thông:
* Mục tiêu:
Phát triển hạ tầng viễn thông có công nghệ hiện đại với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng đáp ứng kịp thời nhu cầu cung cấp dịch vụ cho các khu công nghiệp, khu du lịch, đô thị mới, cửa khẩu và các khu dân cư vùng sâu vùng xa. Phát triển mạng lưới bưu chính đều khắp, rút ngắn khoảng cách các bưu cục, chỉ số dân phục vụ trên bưu cục. Xây dựng hạ tầng CNTT đồng bộ, tiên tiến từng bước hiện đại.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Đến năm 2010, mật độ điện thoại đạt 35 - 40 máy/100 dân; 100% thôn bản, 100% hộ gia đình ở thành phố, 60% hộ gia đình ở nông thôn có điện thoại.
- Bình quân dưới 4000 người dân có một điểm bưu cục phục vụ.
- Đạt 100.000 thuê bao Internet, trong đó có 60.000 thuê bao Internet băng rộng.
- Doanh thu từ phần mềm và dịch vụ nội dung trên Internet các loại phấn đấu đến 2010 đạt 10 triệu USD.
* Nhiệm vụ:
- Về viễn thông: Đưa các dịch vụ viễn thông đến tới các thôn, xã, phủ sóng di động đến khắp các vùng dân cư đáp ứng yêu cầu giao dịch, quản lý nhà nước, nhất là ở các vùng lõm, vùng sâu vùng xa. Xây dựng viễn thông kết hợp Internet trong xu thế hội nhập công nghệ thông tin và truyền thông trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
- Về bưu chính: Nâng cao chất lượng dịch vụ, rút ngắn thời gian phát báo và công văn xuống xã, thôn, bản. Chú trọng dịch vụ công ích và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và công nghiệp nông thôn như xây dựng nguồn tư liệu hướng dẫn sản xuất và chế biến nông sản, cung cấp thông tin thương mại nông nghiệp tại các điểm Bưu điện văn hoá xã.
Phát triển mạng chuyển phát nhanh an toàn, tin cậy đồng bộ với các dịch vụ hoàn thiện hàng hoá, dịch vụ kho bãi, dịch vụ quản lý chu trình cung cấp hàng hoá, dịch vụ tài chính bưu chính tạo ra kênh phân phối và thanh toán hàng hoá phù hợp với nhu cầu phát triển thương mại, góp phần thúc đẩy thương mại điện tử trong tương lai. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ theo hướng cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ bưu chính chất lượng cao, an toàn với các giá cước hợp lý. Phát triển bưu chính theo hướng cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá đạt trình độ hiện đại.
- Về CNTT: Phấn đấu làm việc trực tuyến trên mạng từ UBND Tỉnh đến các sở, ban, ngành, các huyện và thành phố, tiến đến nối mạng trực tuyến ở cấp phường xã. Hoàn thành kết nối Internet các điểm bưu điện văn hoá xã, điểm phục vụ BCVT, các trường học, bệnh viện.
Chuẩn bị để triển khai các dịch vụ thuế điện tử (Cục Thuế), thủ tục xuất nhập khẩu điện tử (Sở Thương mại), hải quan điện tử (Cục Hải quan), thanh toán điện tử (Ngân hàng)… Thông qua ứng dụng CNTT các sở ban ngành công khai chỉ tiêu các dịch vụ cung cấp qua mạng để doanh nghiệp, nhân dân có thể góp ý, giao tiếp liên tục 7 ngày trong tuần và 24/24 giờ.
5. Tài chính, ngân hàng:
* Mục tiêu:
Phát triển hệ thống dịch vụ tài chính ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế. Bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng với trọng tâm là kiểm soát hữu hiệu chất lượng tín dụng và các rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng. Nâng cao uy tín và thương hiệu của hệ thống ngân hàng trên thị trường tài chính quốc tế.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Tăng trưởng huy động vốn bình quân: 15 – 20%/năm
- Tăng trưởng tín dụng bình quân: 15 – 20%/năm
- Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng: 40 – 50%
- Tỷ trọng nợ xấu so tổng dư nợ tín dụng năm 2010: 4,5 – 7%
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đến năm 2010: 8%
* Nhiệm vụ:
Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng phục vụ dịch vụ tài chính hiện có như: tư vấn thẩm định giá, bảo hiểm, xổ số... theo hướng đa dạng hoá hình thức loại hình, đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của nền kinh tế. Phát triển các loại hình dịch vụ tài chính mới trên địa bàn tỉnh như dịch vụ kế toán, kiểm toán, chứng khoán, cho thuê tài chính...
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, cải tiến thủ tục giao dịch, trong đó đặc biệt coi trọng dịch vụ huy động vốn, cung ứng tín dụng, dịch vụ thanh toán và kinh doanh ngoại tệ; Tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hoá giá trị gia tăng cho các Tài chính tín dụng, khách hàng và nền kinh tế.
Triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử, tự động, đồng thời đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi các công cụ thanh toán mới theo tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm tiền điện tử, thẻ thanh toán nội địa, thẻ thanh toán quốc tế, thẻ đa năng, thẻ thông minh và séc. Tập trung đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản, trước hết là tài khoản cá nhân với các thủ tục thuận lợi, an toàn và các tiện ích đa dạng kèm theo để thu hút nguồn vốn rẻ trong thanh toán và tạo cơ sở phát triển các dịch vụ thanh toán thẻ, séc cá nhân và thanh toán không dùng tiền mặt.
Mở rộng các hình thức thanh toán quốc tế (thư tín dụng thanh toán, chuyển tiền quốc tế...) nhằm hỗ trợ các hoạt động đầu tư quốc tế và xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ. Mở rộng các dịch vụ làm đại lý phát hành và thanh toán thẻ, séc quốc tế, đồng thời từng bước mở rộng phát hành thẻ thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại Việt Nam.
6. Y tế:
* Mục tiêu:
Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ y tế nhằm thu hút các nguồn lực cũng như năng lực trong nước và nước ngoài. Phát huy và huy động mọi tiềm năng để củng cố và hoàn thiện hệ thống y tế của địa phương, nhất là mạng lưới y tế cơ sở trên tất cả các lĩnh vực.
Triển khai có hiệu quả các chương trình y tế, phấn đấu để mọi người được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Hình thành các cơ sở y tế, chuyên khoa chất lượng cao. Đồng thời tạo điều kiện để người dân tiếp cận và sử dụng các dịch vụ này.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- 100% trẻ em được tiêm chủng đầy đủ 7 loại vắc-xin cơ bản.
- 80% trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- 100% phòng khám đa khoa khu vực được xây dựng kiên cố và có đủ bác sĩ hoạt động.
- Xây dựng 2 bệnh viện đa khoa tỉnh với quy mô 200 – 500 giường.
- Khuyến khích xây dựng 1 – 2 bệnh viện tư nhân.
- Thành lập 1 bệnh viện quốc tế tại Thành phố Huế.
- Khuyến khích xây dựng 01 trung tâm vận chuyển cấp cứu.
- Thành lập 3 cơ sở khám chữa bệnh kết hợp du lịch nghỉ dưỡng.
* Nhiệm vụ:
Phát triển và đa dạng hoá các loại hình cung cấp dịch vụ y tế tư nhân, mở rộng hợp tác quốc tế xây dựng dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao, tiến tới xây dựng bệnh viện quốc tế. Phát triển y học cổ truyền. Gắn dịch vụ y tế với dịch vụ du lịch.
Tăng cường việc triển khai công tác xã hội hoá y tế nhằm huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế trong các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, người bệnh trong và ngoài nước. Đồng thời chủ động tìm kiếm các nguồn viện trợ để tăng nguồn lực cho ngành.
Tiếp tục triển khai đề án nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người nghèo, nâng cao tỷ lệ tham gia BHYT, thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2010.
Thực hiện có hiệu quả chính sách quốc gia về thuốc, xoá bỏ độc quyền trong cung ứng thuốc và triển khai các biện pháp tích cực nhằm bình ổn giá thuốc trên thị trường. Thực hiện chính sách quốc gia về phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, chương trình sức khoẻ sinh sản, công tác phòng chống các loại bệnh dịch... Tiếp tục củng cố và phát triển Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc – Mỹ phẩm – Thực phẩm để thực sự trở thành Trung tâm chuyên sâu của khu vực miền Trung.
7. Giáo dục – đào tạo:
* Mục tiêu:
Nâng cao hiệu quả giáo dục ở các cấp học, bậc học, xây dựng thành trung tâm đào tạo đạt chuẩn quốc tế. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, trong đó chú trọng phát triển các loại hình trường ngoài công lập, trường tư thục. Giải quyết tốt quan hệ giữa phổ cập và nâng cao, đại trà và mũi nhọn. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục theo Nghị quyết 05 của Chính phủ, xây dựng một xã hội hướng đến học tập thường xuyên.
Tuyển chọn, đào tạo đủ các loại hình giáo viên đặc thù và nhân viên trường học; nâng dần tỷ lệ giáo viên đạt trình độ trên chuẩn đáp ứng yêu cầu tăng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục, yêu cầu phát triển các trường chất lượng cao.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Phấn đấu đến năm 2010, mầm non có 140 cơ sở ngoài công lập, tiểu học có 8 – 10 trường, trung học cơ sở có 7 – 8 trường, trung học phổ thông có 11 – 13 trường, đại học có 2 trường ngoài công lập.
- Tỷ lệ học sinh học trung học chuyên nghiệp ngoài công lập là 30%.
- Tỷ lệ học sinh học ngoài công lập đại học cao đẳng là 30-40%.
- Tỷ lệ học sinh học trong các cơ sở dạy nghề ngoài công lập đạt 25-30%.
- Đến năm 2010, thành phố Huế có 5-6 trường ngoài công lập ở cấp THPT.
- 2-3 cơ sở dạy nghề ngoài công lập ở các huyện, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và các khu công nghiệp.
- Phấn đấu đến năm 2010 có Viện đại học tư thục công nghệ Nguyễn Tri Phương.
* Nhiệm vụ:
Về giáo dục mầm non: Chuyển dần các cơ sở GD mầm non công lập có đủ điều kiện sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Trước mắt, từ nay đến năm 2010 chuyển các cơ sở giáo dục mầm non công lập ở Thành phố Huế và một số huyện có điều kiện thuận lợi, kinh tế phát triển sang thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên.
Có lộ trình chuyển các cơ sở GD mầm non bán công sang dân lập họăc tư thục. Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân đóng góp kinh phí, đất đai xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Về giáo dục phổ thông: Khuyến khích mở các trường ngoài công lập ở bậc tiểu học, cấp THCS ở Thành phố Huế, ở một số huyện có điều kiện kinh tế phát triển và khuyến khích mở các trường THPT ngoài công lập ở các địa bàn trong toàn tỉnh .
Có lộ trình chuyển một số trường THPT công lập có chất lượng tốt sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính; từ nay đến năm 2010, tổ chức thực hiện trước ở Thành phố Huế và một số huyện có điều kiện thuận lợi.
Có lộ trình chuyển dần các trường THPT bán công hiện nay sang dân lập, tư thục hoặc công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích. Các cơ sở ngoài công lập có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc lợi nhuận; trong đó khuyến khích hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận với các chính sách ưu đãi của nhà nước.
Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân đóng góp kinh phí, đất đai xây dựng trường tiểu học, THCS, THPT đạt chuẩn quốc gia.
Về giáo dục trung học chuyên nghiệp: Khuyến khích thành lập các trường THCN ngoài công lập. Chuyển các cơ sở đào tạo trung học chuyên nghiệp công lập thuộc UBND tỉnh quản lý sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Trước mắt, giao cho các cơ sở đào tạo THCN xây dựng cơ chế tự đảm bảo toàn bộ hoặc một phần chi phí hoạt động thường xuyên trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thực hiện.
Nghiên cứu thí điểm chuyển một số cơ sở đào THCN công lập sang loại hình ngoài công lập.
Khuyến khích các cơ sở đào tạo THCN trên địa bàn liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng cao của nước ngoài.
Về đại học cao đẳng: Khuyến khích thành lập các trường Đại học, Cao đẳng dân lập hoặc tư thục. Khuyến khích Đại học Huế và các trường Cao đẳng trên địa bàn liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng cao của nước ngoài.
Có lộ trình chuyển các trường đại học, cao đẳng công lập sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Trước mắt, từ nay đến 2010, thực hiện cơ chế tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên đối với các trường Cao đẳng Sư phạm và Cao đẳng Y tế Thừa Thiên Huế.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để hình thành mô hình trường cao đẳng cộng đồng ở tỉnh.
Về đào tạo nghề: Nhà nước ưu tiên đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, trọng điểm, đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao; những ngành nghề đào tạo khó huy động nguồn lực từ xã hội, ưu tiên cho những vùng khó khăn vùng đồng bào dân tộc.
Đến năm 2010, chuyển phần lớn các cơ sở dạy nghề công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ. Thực hiện cổ phần hoá đối với các cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp theo tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp.
8. Nông nghiệp:
* Mục tiêu:
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu gắn với xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại. Tiếp tục triển khai sản xuất cung ứng các loại giống cây trồng, vật nuôi đủ về số lượng, đạt về chất lượng; đảm bảo lượng phân bón cung cấp cho toàn ngành nông nghiệp. Tập trung chỉ đạo đàn bò theo hướng thịt bằng các giống bò lai, hoàn chỉnh mạng lưới thụ tinh nhân tạo bò để nâng cao chất lượng đàn bò về thể trạng và phẩm chất thịt. Nâng cao năng lực các công trình như hồ chứa, đập dâng, có kế hoạch nâng cấp bảo dưỡng để tăng năng lực nguồn nước tưới, tổ chức nạo vét, khơi dòng các hói kênh, đảm bảo hệ thống thuỷ nông chủ động nguồn tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nâng cao chất lượng dịch vụ thuỷ sản và tăng khả năng cạnh tranh của các đơn vị kinh doanh dịch vụ thuỷ sản trên thị trường, tăng cường khai thác tiềm năng và thế mạnh thuỷ sản trên địa bàn tỉnh.
Phát triển các kênh phân phối dịch vụ nông nghiệp như các Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, các công ty cung ứng cho nông nghiệp và khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực này.
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Chủ động tưới tiêu cho 80 – 85% diện tích lúa.
- Tăng số lượng HTX bình quân khoảng 7,2%/năm, chú trọng phát triển các HTX nông nghiệp kinh doanh tổng hợp, HTX Thương mại dịch vụ, HTX xây dựng.
- Hàng năm cung ứng 1500 – 2000 tấn giống lúa xác nhận, 10 triệu cây giống lâm nghiệp, 30.000 tấn phân bón các loại, đảm bảo cung ứng đủ các giống cây trồng khác.
- Về thủy sản, cung ứng hằng năm 230 triệu giống mặn, lợ các loại, 44 triệu con giống nước ngọt các loại. Đến năm 2010, dịch vụ kiểm tra phân tích 1550 mẫu nước và 1400 mẫu tôm cá. Vận chuyển sản phẩm hải sản qua cảng Thuận An đạt 7316 tấn/năm.
* Nhiệm vụ:
Về nông nghiệp, chỉ đạo thực hiện các chủ trương định hướng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế hộ, kinh tế trang trại trong nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ nông nghiệp, chú trọng đến các khâu trung gian như Hợp tác xã nông nghiệp, thành phần kinh tế tư nhân, hộ cá thể nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nông dân, nhất là ở các vùng nông thôn xa xôi, vùng sâu vùng xa.
Tăng cường công tác thú y, bảo vệ thực vật, quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, sản phẩm hàng hoá. Tiếp tục kiện toàn, tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung phương thức hoạt động các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Đa dạng hóa các hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư nông lâm nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm.
Về thủy sản, sắp xếp lại hệ thống trại giống và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn ngành đối với các trung tâm giống cấp I mặn, ngọt để nâng cao số lượng và chất lượng giống thuỷ sản. Hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ và hậu cần nghề cá, khuyến khích phát triển cơ sở vừa và nhỏ. Tập trung đầu tư xây dựng và bổ sung hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng cá, bến cá, sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, các khu neo đậu trú bão để đảm bảo dịch vụ tại chỗ nghề cá phát triển. Mở rộng cảng cá Thuận An và khu đóng sửa tàu thuyền trong cảng; xây dựng khu neo đậu tàu Phú Hải, Phú Thuận.
9. Hành chính công:
Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công theo tinh thần Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; hoàn thiện Quy trình giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh; triển khai mô hình “một cửa” liên thông từ cấp xã đến cấp huyện. Tiếp tục phân cấp quản lý cho ngành và địa phương để bảo đảm tính năng động, sáng tạo, tăng trách nhiệm của mỗi cấp và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ tỉnh tới cơ sở.
Thực hiện cải cách mạnh mẽ các dịch vụ hành chính công theo hướng quy trình thủ tục đơn giản, cơ chế rõ ràng minh bạch, đội ngũ công chức đủ về số lượng và năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao, nắm vững các quy định pháp luật hiện hành cũng như các quy định theo thủ tục, quy trình giải quyết công việc, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như đời sống xã hội ngày một cao. Xây dựng mô hình dịch vụ hành chính công phân định rạch ròi giữa chức năng cung ứng dịch vụ hành chính công và chức năng quản lý hành chính nhà nước tại các cơ quan công quyền, đặc biệt là trong việc thực hiện cơ chế “một cửa”.
Đầu tư mở rộng tin học hóa các dịch vụ hành chính công trên cơ sở đầu tư ban đầu hoặc thực hiện thu phí đối với các dịch vụ hành chính công để đầu tư lại cho hệ thống dịch vụ này, tiến tới xây dựng dịch vụ hành chính công qua mạng. Ứng dụng các công cụ quản lý hiện đại như: bộ tiêu chuẩn ISO 2001-2005, hệ thống quản lý theo kết quả (PMS); ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng phục vụ dân, doanh nghiệp và kiểm soát công việc.
Theo chiến lược của một số công ty bảo hiểm, tốc độ tăng trưởng doanh số dịch vụ bảo hiểm phấn đấu đạt 15%/năm. Về sản phẩm, thực hiện khai thác sâu hơn các sản phẩm truyền thống mang tính đại chúng như bảo hiểm xe cơ giới – con người, học sinh, xây dựng lắp đặt, tài sản. Bên cạnh đó, tăng cường mở rộng và thực hiện các loại hình dịch vụ bảo hiểm mới và những loại hình mà tỷ trọng khai thác còn ở mức thấp như: bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản cho doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dịch vụ bảo hiểm trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm hàng không hàng hải, các dịch vụ bảo hiểm cần công nghệ cao như trong lĩnh vực rủi ro tài chính,... đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức đòi hỏi ngày một cao và phức tạp. Về thị trường, duy trì và khai thác sâu thị trường trên địa bàn Thành phố Huế và các vùng lân cận, mở rộng khai thác và cung cấp dịch vụ bảo hiểm đến các vùng nông thôn với những sản phẩm phù hợp với mức sống và nhu cầu của bà con như bảo hiểm nông lâm ngư nghiệp, bảo hiểm nhân thọ. Về khai thác khu vực kinh tế, chú trọng khai thác và hướng quảng bá sản phẩm dịch vụ bảo hiểm đến khu vực kinh tế tư nhân do khu vực này sử dụng dịch vụ bảo hiểm còn hết sức hạn chế và các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa chú trọng lắm để có những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khu vực này.
III. Giải pháp:
1. Đổi mới nhận thức về thương mại dịch vụ:
Việt Nam chưa có khái niệm hoàn chỉnh về “thương mại dịch vụ”. Khái niệm “thương mại” chỉ mới được hiểu theo nghĩa hẹp là thương mại hàng hoá. Do đó cần hiểu rằng thương mại dịch vụ là một loại hành vi thương mại, chỉ khác thương mại hàng hoá ở chỗ đối tượng được mua bán không phải là hàng hoá mà là sản phẩm dịch vụ.
Đổi mới nhận thức về thương mại dịch vụ không chỉ trong phạm vi các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mà còn ở các cấp quản lý nhà nước. Từ đó, tạo nên sự hiểu biết về bản chất dịch vụ và thương mại dịch vụ một cách chuẩn xác và thấu đáo, đánh giá đúng tầm quan trọng của lĩnh vực thương mại dịch vụ trong nền kinh tế ngày nay. Nhận thức được tầm quan trọng này, các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp cần có sự quan tâm, đầu tư công sức, tài chính, nhân lực cũng như vật lực nhằm tạo nên bước đột phá, tăng chất lượng của ngành dịch vụ tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói chung.
2. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội:
Trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh, định hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dịch vụ được xác định là ngành mũi nhọn của tỉnh trong những năm tới. Tuy nhiên nhiều phân ngành dịch vụ mặc dù có lợi thế tiềm năng trong thời gian dài hạn, nhưng hiện đang gặp nhiều trở lực về công nghệ, nhân lực, vốn đầu tư, thị trường... Do vậy, từng phân ngành cần chủ động xây dựng các mục tiêu cụ thể cho từng ngành chủ lực, làm nền tảng để thi hành các chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển.
Thường xuyên cập nhật, rà soát, bổ sung các qui hoạch, nhất là quy hoạch các khu du lịch, khu đô thị. Đổi mới nội dung và phương pháp lập qui hoạch phù hợp với thị trường và hội nhập quốc tế.
Phát triển các tổ chức tư vấn qui hoạch thuộc các thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị tư vấn quy hoạch của Trung ương và các đơn vị nước ngoài có kinh nghiệm. Có chế tài gắn trách nhiệm của các tổ chức tư vấn xây dựng qui hoạch với chất lượng qui hoạch.
Tăng cường quản lý Nhà nước về qui hoạch, thực hiện quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý kiến trúc, bảo vệ cảnh quan môi trường; có biện pháp xử lý vi phạm nghiêm minh. Phát huy vai trò kiểm tra, giám sát cộng đồng đối với việc công khai và tổ chức thực hiện dự án qui hoạch.
3. Huy động và phát triển các nguồn lực cho đầu tư phát triển:
3.1 Vốn
Để đạt mục tiêu tăng trưởng các ngành dịch vụ, thời kỳ 2006 - 2010 ngành dịch vụ cần huy động 25 - 27 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư (chiếm 61,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của toàn tỉnh); trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 39,5%; từ vốn tín dụng 17%; huy động vốn tự có của các doanh nghiệp và dân cư đầu tư dự kiến 10,5%; đầu tư trực tiếp nước ngoài 12%, ODA và các nguồn viện trợ khác khoảng 21% đây là nguồn vốn rất lớn, nhưng nếu không huy động được sẽ khó bảo đảm các mục tiêu đề ra.
Để có đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển, cần thực hiện các cơ chế, chính sách khuyến khích đặc biệt và tạo lập một môi trường kinh doanh thực sự thông thoáng, tạo bước đột phá xã hội hoá để huy động mạnh mẽ nguồn lực trong nhân dân, vốn đầu tư từ các địa phương trong cả nước và vốn đầu tư nước ngoài. Tăng cường các biện pháp kích cầu đầu tư, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá đầu tư trong ngành giáo dục, y tế và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị.
Tranh thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành trung ương để xúc tiến sớm các dự án ưu tiên đầu tư trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị và Quyết định 148 của Thủ tướng Chính phủ.
3.2 Nhân lực
Nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức cần thiết thúc đẩy phát triển dịch vụ, phát triển nền kinh tế, phục vụ cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, coi đó là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển dịch vụ, hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Trước nhất, tạo sự chuyển biến đồng bộ trong nhận thức và năng lực của các cấp các ngành, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý khu vực dịch vụ để tạo nên sự thống nhất, đồng bộ trong hành động phát triển dịch vụ. Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những đối tượng liên quan trực tiếp đến lĩnh vực dịch vụ có kiến thức và am hiểu lĩnh vực này. Thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại; sử dụng và phát huy có hiệu quả đội ngũ lao động tỉnh; ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành du lịch, giao thông vận tải, y tế, giáo dục, bưu chính viễn thông…
4. Đặt ưu tiên vào những ngành dịch vụ mang tính "đột phá"
Những ngành dịch vụ mang tính "đột phá" là những ngành có thể tạo ra những hiệu ứng cấp số nhân trong toàn bộ nền kinh tế và làm thay đổi căn bản cấu trúc cạnh tranh và các lựa chọn kinh tế sẳn có. Chính phủ đã xác định những ngành dịch vụ ưu tiên (viễn thông, tài chính, vận tải hàng không, vận tải biển, xây dựng và du lịch) vì những ngành này có nhiều tiềm năng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của chúng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Mặc dù vậy, phải thấy rằng trong những ngành ưu tiên kể trên, chỉ có ngành viễn thông (nói chung là công nghệ thông tin và truyền thông) thực sự là ngành có tính "đột phá". Những chuyển biến mang lại từ việc ứng dụng mạng Internet và các công nghệ truyền thông liên quan đã thay đổi vĩnh viễn phương thức kinh doanh cũng như các giải pháp phát triển kinh tế cho các cộng đồng nông thôn. Chính vì vậy, việc Chính phủ vẫn dành ưu tiên cho ngành viễn thông như là một ngành kinh tế dịch vụ mang tính "đột phá" là một yếu tố sống còn.
Thứ hai, đối với tỉnh Thừa Thiên Huế với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng; trong những năm qua, du lịch đã phát huy vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, thực hiện phát triển đột phá nền kinh tế, làm động lực phát triển các ngành dịch vụ khác. Việt Nam đã có chiến lược quốc gia về du lịch, do đó tập trung ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch là một trong những hướng đi đúng đắn phát triển khu vực dịch vụ.
Ngành thứ ba mang tính "đột phá" là đào tạo, đặc biệt là đào tạo khả năng ứng dụng thực tiễn các kiến thức chính quy từ nền giáo dục cũng như việc tiếp tục trau dồi kỹ năng. Để có được một bước chuyển căn bản trong năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, đòi hỏi phải cung cấp một nguồn nhân lực dồi dào, các lao động có kỹ năng đổi mới, giải quyết vấn đề và phục vụ khách hàng, cùng với đó là đội ngũ quản lý và giám sát được đào tạo bài bản.
Ngành dịch vụ thứ tư mang tính "đột phá" là dịch vụ kinh doanh. Ngành dịch vụ kinh doanh mang tính "đột phá" nhờ vai trò quyết định của chúng trong mọi hoạt động kinh tế - ví dụ, trong giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt hàng rào đối với các doanh nhân có ý tưởng mới (bằng cách cho phép những người này thuê được các chuyên gia), tạo ra sự linh hoạt trong cơ cấu bằng cách biến các chi phí cố định (tự sản xuất) thành các chi phí khả biến (thuê ngoài), hỗ trợ quá trình lan tỏa công nghệ, cải thiện công việc quản lý chuỗi cung ứng, kết nối nhà cung cấp với người tiêu dùng giữa các quốc gia, và mang lại thu nhập bằng ngoại tệ.
5. Kiện toàn hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ các ngành dịch vụ
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu cho phát triển ngành dịch vụ là kiện toàn hệ thống cơ sở hạ tầng, ngoài ý nghĩa phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và đồng bộ là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển của ngành dịch vụ. Trước mắt, cần ưu tiên tập trung hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng của một số ngành chính như: giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, hàng không...); du lịch (các cơ sở lưu trú, các khu vui chơi giải trí, các khu nghỉ dưỡng...), thương mại (chợ, siêu thị, trung tâm thương mại), y tế (bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh...), giáo dục (trường học, trung tâm đào tạo,...), công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông... vv. Đồng thời phải ưu tiên dành quỹ đất cho phát triển hạ tầng các ngành dịch vụ.
6. Phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo hướng đẩy mạnh ứng dụng kinh tế tri thức, tiến bộ khoa học công nghệ
Khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý sản xuất - kinh doanh, ứng dụng công nghệ thông tin. Khuyến khích các doanh nghiệp tự bỏ vốn, đầu tư nhân lực để nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong các ngành nghề kinh doanh dịch vụ, nhằm nâng cao cải tiến chất lượng dịch vụ. Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, chuyển giao công nghệ; phát hiện, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích trong thực hiện ứng dụng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức trong sản xuất kinh doanh cũng như trong quản lý.
7. Chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế
Nắm bắt tiến trình Việt Nam gia nhập WTO. Nghiên cứu các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới cũng như các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết. Từ đó nắm rõ chiến lược tổng thể, lộ trình cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn, tạo sự chủ động khi sự hội nhập được thực hiện. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu ở ba cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
8. Tăng cường xúc tiến mở rộng thị trường
Hỗ trợ nghiên cứu phát triển thị trường; xây dựng thương hiệu; quảng bá sản phẩm, doanh nghiệp và tiềm năng; phát triển mạng lưới trao đổi hàng hoá với các địa phương trong vùng và trong cả nước. Liên kết với các trung tâm kinh tế lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung (trục Huế - Đà Nẵng - Dung Quất); mở rộng quan hệ hợp tác với Lào, Thái Lan và các nước trong tiểu vùng sông Mê Kông trên tuyến hành lang Đông Tây; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư - thương mại- du lịch, chú trọng khai thác các thị trường tiềm năng. Tích cực kêu gọi liên doanh, liên kết trong và ngoài nước, nhất là trong xây dựng hạ tầng du lịch - dịch vụ, phát triển y tế, giáo dục....
Ban hành các chính sách thu hút đầu tư vào khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, khu du lịch Lăng Cô - Cảnh Dương và cảng nước sâu Chân Mây. Bổ sung các chính sách, biện pháp mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu.
9. Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các thành phần kinh tế
Đơn giản hoá và công khai hoá các thủ tục hành chính; tạo lập môi trường đầu tư bình đẳng, minh bạch, thông thoáng để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển kinh doanh.
Hình thành một số doanh nghiệp mạnh hoạt động trong các ngành xây dựng, du lịch, xuất khẩu, vận tải... Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Củng cố các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá. Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, đẩy mạnh thu hút và hỗ trợ kịp thời tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
10. Tạo chuyển biến căn bản trong cải cách hành chính
Coi trọng cải cách thủ tục hành chính, chấn chỉnh kỷ luật hành chính, tạo chuyển biến đồng bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị từ tỉnh đến huyện, thành phố và các đơn vị cơ sở.
Rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn các cấp. Củng cố tổ chức bộ máy ở các đơn vị yếu kém; hình thành một số tổ chức bộ máy mới theo yêu cầu nhiệm vụ.
Thành lập tổ công tác liên ngành về dịch vụ cấp tỉnh.
Tăng cường công tác phân công, phân cấp, kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh kỷ luật hành chính. Đề cao trách nhiệm cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, gắn với việc củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ cơ sở. Xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực điều hành, quản lý để đáp ứng ngày càng tốt chức năng nhiệm vụ theo luật định.
Rà soát, chỉnh sửa hệ thống văn bản pháp quy nhằm chấn chỉnh công tác chỉ đạo, quản lý hành chính. Ban hành các quy định về quy trình cấp giấy phép đầu tư, cấp đăng ký kinh doanh, cấp chứng chỉ qui hoạch, cấp đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất... theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hồ sơ.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với mọi ngành, địa phương, trước hết về công tác quy hoạch; tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý dịch vụ chuyên ngành với cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Nhanh chóng phát huy vai trò quản lý nhà nước trên địa bàn của Sở Bưu chính - Viễn thông, quản lý hoạt động trong lĩnh vực bưu chính – viễn thông, tin học, nhất là lĩnh vực Internet.
11. Kết hợp lồng ghép lĩnh vực dịch vụ vào các chương trình trọng điểm của tỉnh
Tập trung nguồn lực trí tuệ để thực hiện có hiệu quả các chương trình trọng điểm của tỉnh, chú trọng các chương trình góp phần hỗ trợ khu vực dịch vụ phát triển như: Chương trình Chỉnh trang đô thị, Chương trình bảo tồn, phát triển giá trị văn hoá và xây dựng Huế trở thành thành phố Festival của Việt Nam, Chương trình “Kiên cố hoá trường học”... để có sự lồng ghép, thúc đẩy, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
1. Thành lập Ban Chỉ Đạo “Chương trình phát triển dịch vụ tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2006 - 2010”:
2. Cơ quan thường trực: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành lập một tổ thường trực phục vụ cho chương trình (4 đến 5 người).
1. Các Sở, Ngành, cơ quan thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện và thành phố Huế có trách nhiệm:
- Tổ chức các hội nghị nghiên cứu, quán triệt các nội dung Chỉ thị 49 của Thủ tướng và Chương trình hành động của UBND tỉnh đến cán bộ chủ chốt trong các ngành, các địa phương. Thời gian thực hiện: Quý III/2006.
- Tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, các đề án ưu tiên của đơn vị mình; cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình vào kế hoạch 5 năm và hàng năm của các đơn vị, địa phương. Trong quý III/2006, căn cứ chương trình phát triển dịch vụ của tỉnh, các Sở, Ngành, cơ quan thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện và thành phố Huế có trách nhiệm hoàn thiện chương trình của đơn vị; Định kỳ cuối tháng 7 hàng năm, báo cáo tình hình thực hiện và xây dựng chương trình hành động về phát triển dịch vụ cho năm tiếp theo, gửi về Văn phòng UBND tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu Tư tổng hợp báo cáo UBND Tỉnh.
- Tổ chức triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trong chương trình; quá trình điều hành thực hiện, kịp thời phát hiện vướng mắc, đề xuất cơ chế chính sách để đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ có nhiều tiềm năng.
* Định kỳ quý IV hàng năm, tổ chức Hội nghị đánh giá tổng kết chương trình phát triển dịch vụ, xây dựng kế hoạch phát triển dịch vụ cho năm tiếp theo.
- Chủ trì rà soát lại các ngành, hoạt động dịch vụ hiện chưa rõ cơ quan quản lý, bổ sung chức năng quản lý nhà nước cho các Sở, Ngành liên quan. Thời gian thực hiện: Quý III/2006.
3. Cục thống kê có trách nhiệm:
- Chủ trì hệ thống chế độ báo cáo thống kê về dịch vụ và thương mại dịch vụ; trước mắt tập trung đối với một số chỉ tiêu chủ yếu như: GDP các ngành dịch vụ, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ, giá trị gia tăng các ngành dịch vụ; tỷ trọng GDP các ngành dịch vụ chiếm trong GDP khu vực dịch vụ... Thời gian thực hiện: Quý III/2006.
- Chủ trì hướng dẫn Các Sở, Ngành, cơ quan thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện và thành phố Huế cách tính các chỉ tiêu đánh giá tình hình dịch vụ.
4. Sở Thương Mại có trách nhiệm:
- Chủ trì rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách về xuất nhập khẩu và thương mại, dịch vụ, trong quý III/2006 trình UBND tỉnh Dự thảo Quyết định một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển thương mại, dịch vụ và hoạt động xuất nhập khẩu.
- Phối hợp các cơ quan thông tin đại chúng, tổ chức phổ cập thông tin hướng dẫn các doanh nghiệp trên địa bàn chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện các cam kết về thương mại dịch vụ khi gia nhập WTO, các cam kết về tự do hoá thương mại và dịch vụ trong khuôn khổ ASEAN (CEPT/AFTA, AFAS...) đến 2010 và giai đoạn tiếp theo.
5. Nội dung đánh giá của chương trình phát triển từng ngành dịch vụ:
Nội dung đánh giá tập trung một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Giá trị sản xuất của ngành dịch vụ;
- Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ;
- Giá trị GDP của ngành dịch vụ;
- Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ;
- Tỷ trọng của phân ngành dịch vụ trong GDP của toàn khu vực dịch vụ;
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ;
- Môi trường kinh doanh và khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động dịch vụ;
Định kỳ vào ngày 20 hàng tháng và tháng cuối quý, báo cáo tình hình thực hiện về phát triển dịch vụ và các vấn đề liên quan cần giải quyết gửi về Văn phòng UBND tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu Tư, Cục Thống kê.
VI. Phân công trách nhiệm chủ trì theo dõi các ngành dịch vụ:
1. Sở Du lịch: dịch vụ khách sạn, điểm cắm trại và các dịch vụ khác cho nghỉ trọ ngắn ngày; nhà hàng, bar và căng tin; dịch vụ nước khoáng; du lịch lữ hành; tổ chức chương trình du lịch; dịch vụ hướng dẫn viên du lịch.
2. Sở Giao thông Vận tải: dịch vụ vận tải đường bộ, đường ống; vận tải đường thuỷ; vận tải hàng không; các hoạt động phụ trợ cho vận tải; dịch vụ cho thuê phương tiện vận tải đường bộ, đưòng thuỷ, hàng không; kiểm tra và phân tích kỹ thuật giao thông; bốc xếp hàng hoá; kho bãi.
3. Sở Thương mại: dịch vụ thương nghiệp; xúc tiến thị trường, logistics, đại lý hưởng hoa hồng, dịch vụ uỷ thác đặc quyền.
4. Sở Bưu chính Viễn thông: dịch vụ bưu chính; viễn thông; dịch vụ cho thuê máy móc, thiết bị văn phòng; các hoạt động liên quan đến máy tính (tư vấn về phần cứng, tư vấn và cung cấp phần mềm, xử lý số liệu, cơ sở dữ liệu...).
5. Sở Tài chính: dịch vụ tài chính, tín dụng (bao gồm: ngân hàng, trung gian tiền tệ, bảo hiểm, trợ cấp, thị trường tài chính, giao dịch chứng khoán...); dịch vụ kế toán và kiểm toán; quản lý tài sản; tư vấn tài chính.
6. Sở Y tế: dịch vụ các hoạt động y tế (bao gồm: dịch vụ bệnh viện, bệnh xá, trạm xá, phòng khám chữa bệnh, hệ thống vệ sinh phòng dịch...); y tá và hộ lý, cấp cứu, chăm sóc sức khoẻ.
7. Sở Giáo dục và Đào tạo: dịch vụ mẫu giáo; tiểu học; giáo dục phổ thông trung học; giáo dục cao đẳng; bổ túc văn hoá và giáo dục khác.
8. Sở Văn hoá Thông tin: dịch vụ sản xuất và phát hành phim điện ảnh và phim video; hoạt động phát thanh và truyền hình; hoạt động nghệ thuật sân khấu, âm nhạc và các hoạt động nghệ thuật khác; hoạt động thông tấn; hoạt động thư viện và lưu trữ; hoạt động bảo tồn bảo tàng; quảng cáo...
9. Sở Khoa học Công nghệ: dịch vụ nghiên cứu và phát triển, dịch vụ khoa học và kỹ thuật.
10. Sở Xây dựng: dịch vụ kiến trúc; quy hoạch đô thị; dịch vụ xây dựng; cho thuê máy móc thiết bị xây dựng; dịch vụ cấp thoát nước; dịch vụ quản lý/xử lý chất thải; dịch vụ vệ sinh.
11. Sở Tài nguyên và Môi trường: dịch vụ bất động sản; đánh giá tác động môi trường.
12. Sở Lao động Thương binh Xã hội: dịch vụ xuất khẩu lao động; đào tạo nghề.
13. Sở Ngoại vụ: dịch vụ dịch thuật; hoạt động ngoại giao; hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
14. Sở Thể dục Thể thao: dịch vụ thể thao.
15. Sở Nông nghiệp và PTNT: dịch vụ thú y; dịch vụ hỗ trợ nông lâm nghiệp; cho thuê máy móc và thiết bị nông lâm nghiệp.
16. Sở Tư pháp: dịch vụ pháp lý; dịch thuật.
17. Sở Nội vụ: dịch vụ hoạt động hiệp hội, đoàn thể.
18. Sở Công nghiệp: Dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ; dịch vụ hỗ trợ công nghiệp chế tạo; dịch vụ hỗ trợ cung cấp/ phân phối năng lượng.
19. Sở Thuỷ sản: Dịch vụ nghiên cứu và phát triển thuỷ sản; dịch vụ khoa học và kỹ thuật thuỷ sản.
20. Đại học Huế: dịch vụ hoạt động giáo dục đại học và sau đại học.
21. Các cơ quan Thông tấn báo chí: tuyên truyền phổ biến sâu rộng chương trình phát triển dịch vụ, nâng cao nhận thức về chủ trương phát triển dịch vụ của tỉnh trong năm năm tới.
* Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, căn cứ vào tình hình thực tiễn và sự chỉ đạo của các cơ quan Trung ương, các Sở ban ngành thường xuyên cập nhật điều chỉnh chương trình sao cho phù hợp với tình hình mới.
ỦY BAN NHÂN DÂN
PHỤ LỤC
PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ LĨNH VỰC DỊCH
VỤ KHÁC GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1656/2006/QĐ-UBND ngày 07 tháng 7 năm
2006 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế)
1. Văn hoá:
Với bề dày truyền thống và sự phong phú về bản sắc văn hoá Huế, Thừa Thiên Huế có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ văn hoá với nhiều loại hình đa dạng và phong phú. Giai đoạn 2006 – 2010 sẽ phát triển một số dịch vụ chủ yếu như sau:
- Về lĩnh vực nghệ thuật: Tiếp tục phát triển các dịch vụ ca Huế trên sông Hương, dịch vụ tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp với các loại hình ca kịch Huế, múa hát cung đình, Tuồng Huế, ca múa nhạc,...Tuy nhiên, để đưa những dịch vụ này hoạt động có nề nếp, cần thiết tổ chức trung tâm biểu diễn ca Huế trên sông Hương, thực hiện tiêu chuẩn hoá các nghệ sỹ biểu diễn, xây dựng nhà hát nghệ thuật truyền thống và chuyển các đoàn nghệ thuật thành nhà hát Ca kịch Huế, nhà hát nghệ thuật Huế, thúc đẩy việc hình thành nhạc viện Huế.
- Về khai thác hệ thống di tích: Chú trọng các dịch vụ tại các điểm di sản thế giới, hệ thống di tích Hồ Chí Minh, hệ thống di tích lịch sử cách mạng, hệ thống nhà vườn, nhà cổ, làng cổ và phố cổ. Tổ chức khai thác di sản văn hoá như di tích triều Nguyễn. Đẩy mạnh công tác bảo tồn bảo vệ di sản theo chương trình “15 năm di sản văn hoá Huế - Cơ hội đầu tư và phát triển”. Xây dựng khu tưởng niệm anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ, đầu tư tu bổ, phục hồi, tôn tạo di tích và tăng cường công tác tuyên truyền hệ thống bảo tàng di tích cách mạng khu, phố cổ... nhằm xây dựng thành tour du lịch.
- Về dịch vụ giải trí điện ảnh: Tiếp tục duy trì các dịch vụ đã có như chiếu phim, băng đĩa nhạc, băng đĩa hình, internet. Xây dựng trung tâm giải trí điện ảnh theo hướng xã hội hoá với các loại hình hoạt động như chiếu phim, dịch vụ băng đĩa, karaoke, vũ trường (với điều kiện quản lý tốt, hoạt động lành mạnh). Nghiên cứu thành lập Hãng phim Huế.
- Về dịch vụ thông tin có các dịch vụ thư viện, quảng cáo, phát hành sách báo, văn hoá tổng hợp: Xây dựng quy hoạch hệ thống quảng cáo trên địa bàn, trung tâm phát hành sách, tổ chức lại hệ thống cửa hàng sách trên địa bàn. Các nhà xuất bản, cơ quan báo chí, trung tâm văn hóa thông tin, trung tâm phát hành phim, các đội thông tin lưu động là những đơn vị, tổ chức truyền tải những định hướng, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước nên tiếp tục được duy trì và phát triển dưới hình thức công lập theo hướng là các đơn vị cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực xuất bản, báo chí, thông tin tuyên truyền.
2. Xuất khẩu lao động:
Phấn đấu tăng quy mô và đa dạng thị trường lao động; tăng dần cơ cấu ngành nghề lao động xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật và tay nghề cao, tiến tới đưa nhiều lao động kỹ thuật và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Xây dựng một số doanh nghiệp XKLĐ mạnh, có năng lực cạnh tranh trên thị trường. Tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động XKLĐ và chuyên gia, bảo vệ tốt quyền lợi người lao động ở nước ngoài.
3. Thể dục thể thao:
Phát triển dịch vụ Thể dục thể thao nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư cho hoạt động thể dục thể thao, phục vụ nhu cầu tập luyện nhân dân nhằm mục đích nâng cao thể lực, bồi dưỡng ý chí, phát huy nhân tố con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác xã hội hoá phát triển dịch vụ thể dục thể thao. Thường xuyên tổ chức các đợt sinh hoạt, học tập, quán triệt chủ trương, định hướng và mục tiêu để triển khai xã hội hoá thể dục thể thao cho nhân dân. Phát hành các tài liệu hay phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí Trung ương và địa phương tuyên truyền, hướng dẫn về các chính sách khuyến khích xã hội hoá.
Thực hiện đa dạng hoá các loại hình tổ chức dịch vụ ở cơ sở. Khuyến khích và khai thác mọi nguồn đầu tư tự nguyện trong xã hội, trong nhân dân để mở rộng các đơn vị dịch vụ ở cơ sở và làm tăng tài sản của dịch vụ trong xã hội ngoài nguồn vốn của Nhà nước. Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động dịch vụ, trong đó có các tổ chức dịch vụ. Phân định trách nhiệm giữa cơ quan quản lý hành chính Nhà nước và các tổ chức liên đoàn, hiệp hội dịch vụ. Chuyển đổi các cơ sở dịch vụ công lập thành các đơn vị dịch vụ công hoặc các mô hình quản lý khác (cổ phần hoá, giao khoán cho tư nhân quản lý).
Căn cứ quy định hiện hành của chính phủ, tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng tạo động lực thúc đẩy hoạt động dịch vụ xây dựng tỉnh nhà. Tổ chức nhiều cuộc thi thiết kế nhà biệt thự, nhà liền kề tạo điều kiện đầu tư xây dựng nhà ở phù hợp và có hiệu quả, góp phần kích cầu và đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân. Tăng cường hợp tác liên doanh, liên kết với các đơn vị, cá nhân trong và ngoài tỉnh để nâng cao năng lực chuyên môn của các đơn vị tư vấn nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế cũng như của nhân dân. Tiếp tục cải cách hành chính đối với các dịch vụ hành chính công trong lĩnh vực xây dựng theo hướng tạo thuận lợi, nâng cao chất lượng dịch vụ.
Tập trung phát triển mạnh các loại hình dịch vụ KHCN nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh các hoạt động liên quan tới bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và đời sống, trình diễn công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn KHCN, môi giới, xúc tiến công nghệ; các loại hình tổ chức hỗ trợ ươm tạo công nghệ, khởi lập doanh nghiệp; từng bước xây dựng thị trường chuyển giao công nghệ. Phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo hướng đẩy mạnh ứng dụng kinh tế tri thức, tiến bộ khoa học công nghệ; Khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý sản xuất – kinh doanh, ứng dụng các công nghệ mũi nhọn như thông tin, sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá,...
6. Đối ngoại:
Tổ chức dịch vụ biên dịch, phiên dịch các thứ tiếng nước ngoài cho các tổ chức và cá nhân, các dự án hợp tác đầu tư hoặc kêu gọi viện trợ, các hội nghị, hội thảo quốc tế trên địa bàn tỉnh khi có nhu cầu. Tổ chức cung ứng dịch vụ cho hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho các tổ chức và cá nhân người nước ngoài trong việc thuê nhà ở hoặc làm trụ sở. Tư vấn hướng dẫn các cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc xin đặt văn phòng đại diện, văn phòng dự án. Tư vấn hướng dẫn cho các đối tượng có nhu cầu liên quan đến thủ tục xin cấp hộ chiếu, thị thực xuất cảnh cho người Việt Nam, thị thực nhập cảnh cho người nước ngoài, các thủ tục xin gia hạn tại Việt Nam.
Nghiên cứu, tư vấn, thiết kế, cung cấp các dịch vụ liên quan đến quà lưu niệm, tặng phẩm văn hoá cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài và các cơ quan địa phương. Để thực hiện tốt chương trình này, cần thiết lập kênh thông tin với các cơ sở sản xuất hàng lưu niệm để đáp ứng được yêu cầu của đối tác trong thời gian sớm nhất. Thiết lập trang thông tin Website để giới thiệu và cung cấp thông tin cần thiết cho đối tác.
Từng bước đào tạo, cung ứng lao động đáp ứng yêu cầu cho các cơ quan tổ chức nước ngoài. Tăng cường công tác quản lý đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ đối với lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài, trước hết trong các tổ chức phi chính phủ và các doanh nghiệp FDI.
ỦY BAN NHÂN DÂN