Quyết định 130/QĐ-UBND năm 2012 về Đề án Phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2011 - 2015

Số hiệu 130/QĐ-UBND
Ngày ban hành 02/02/2012
Ngày có hiệu lực 02/02/2012
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Vĩnh Long
Người ký Nguyễn Văn Thanh
Lĩnh vực Công nghệ thông tin

UỶ BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 130/QĐ-UBND

Vĩnh Long, ngày 02 tháng 02 năm 2012

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH VĨNH LONG, GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, ngày 26/11/2003;

Căn cứ Quyết định 1244/QĐ-TTg, ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 2011 - 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 15/6/2010 của Tỉnh uỷ Vĩnh Long về tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương II (khoá VIII) về khoa học và công nghệ đến năm 2020;

Xét đề nghị của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tại Tờ trình số 491/TTr-SKHCN, ngày 30 tháng 11 năm 2011,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án Phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2011 - 2015.

Điều 2. Giao Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với thủ trưởng các sở, ban ngành tỉnh có liên quan và Chủ tịch UBND các huyện, thành phố tổ chức triển khai thực hiện Đề án này.

Điều 3. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký./.

 

 

KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Nguyễn Văn Thanh

 

ĐỀ ÁN

PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH VĨNH LONG, GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 130/QĐ-UBND ngày 02/02/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long)

Phần I

HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH VĨNH LONG

Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ (KHCN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước”. Trong những năm qua, hoạt động KHCN đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, trình độ KHCN của nước ta hiện nay còn thấp, năng lực sáng tạo và phát triển công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước.

Thực hiện Quyết định số 1708/2006/QĐ-UBND ngày 30/8/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về phê duyệt Đề án Phát triển khoa học và công nghệ (giai đoạn 2006 - 2010) đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Các chương trình khoa học và công nghệ được triển khai thực hiện khá tốt, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin được nâng lên, đội ngũ cán bộ KHCN thay đổi rõ nét về số lượng và chất lượng. Tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh từng bước được đầu tư, nhiều dự án đã và đang được triển khai thực hiện sẽ góp phần phát huy hiệu quả trong những năm tới.

Cơ cấu tổ chức của các sở, ngành ngày càng ổn định. Ngoài chức năng chuyên môn, các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố còn phối hợp thực hiện các chương trình/đề tài/dự án, tham gia hoạt động nghiên cứu, triển khai, hoạt động thanh, kiểm tra về KHCN, phổ biến, thông tin các văn bản pháp luật chuyên ngành, góp phần đưa hoạt động KHCN vào nề nếp. Được sự quan tâm trong việc đầu tư cơ sở vật chất, ổn định và phát triển tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, hướng các hoạt động KHCN của tỉnh vào định hướng chung của cả nước.

Hoạt động khoa học và công nghệ có nhiều tiến bộ, phát triển và có những đóng góp quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các hoạt động quản lý nhà nước về KHCN như: Hoạt động tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng, quản lý an toàn bức xạ, sở hữu trí tuệ, quản lý đề tài/dự án, hoạt động thông tin khoa học công nghệ được ổn định và phát triển. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KH & CN có nhiều đổi mới, kết quả của các đề tài/dự án được ứng dụng vào thực tiễn, bước đầu đã nâng cao được hiệu quả sản xuất, thu nhập cho người dân và doanh nghiệp. Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ, hỗ trợ tham gia thương mại điện tử, áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (tại các doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước) được đẩy mạnh đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy vậy, mức đầu tư cho hoạt động KHCN của tỉnh, giai đoạn 2006 - 2010 còn rất thấp, chỉ đạt mức 0,79% so với tổng chi ngân sách của tỉnh (thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước, đã đạt 2% tổng chi ngân sách từ năm 2000). Tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ; điều kiện, môi trường nghiên cứu còn thiếu thốn, thiếu hẳn các phòng thí nghiệm có trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại,... Nguồn nhân lực KHCN chưa được phát huy đúng mức, chính sách đãi ngộ, sử dụng nguồn nhân lực chưa thu hút được nhiều cán bộ có trình độ cao về làm việc tại các cơ sở nghiên cứu và các đơn vị trong tỉnh để góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với phát triển sản xuất còn thiếu chặt chẽ dẫn đến việc triển khai ứng dụng kết quả đề tài/dự án vào sản xuất, kinh doanh trong thời gian qua vẫn còn khó khăn nhất định.

Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn có bước phát triển khá tốt, song kết quả ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và khả năng cạnh tranh thị trường của nông sản, hàng hoá chưa cao. Đặc biệt, kết quả ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo quản, chế biến nông sản, thực phẩm còn nhiều hạn chế.

Hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới tại các doanh nghiệp trong tỉnh chưa nhiều. Nguyên nhân là do phần lớn doanh nghiệp trong tỉnh có quy mô sản xuất vừa và nhỏ (sản phẩm chủ yếu tiêu thụ nội địa) nên ít quan tâm đến việc nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHCN để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu, ứng dụng KHCN: Các đơn vị, ngành chuyên môn chưa đề xuất được nhiều đề tài/dự án, nhất là lĩnh vực tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vấn đề khai thác, sử dụng tài nguyên còn phát sinh nhiều bất cập như thay đổi dòng chảy gây sạt lở bờ sông, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước,...và việc ô nhiễm môi trường tại các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, đô thị đang gây nhiều bức xúc trong cộng đồng.

[...]