ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
119/2002/QĐ-UB
|
TP.Hồ
Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 2002
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân ngày 21 tháng 6 năm 1994 ;
Căn cứ Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2001-2010 ;
Căn cứ Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Chính phủ về
phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho thành phố Hồ Chí Minh ;
Nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành
phố lần thứ VII và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Khóa VI, kỳ họp
thứ 7 ;
Xét đề nghị của Trưởng Ban Tổ chức Chính quyền thành phố (Tờ trình số 41/TCCQ
ngày 16 tháng 4 năm 2002) và Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính thành
phố ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.-
Nay ban hành kèm theo quyết định này “Chương trình cải
cách hành chính giai đoạn 2001-2005 của thành phố Hồ Chí Minh”.
Điều 2.-
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 3.-
Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
thành phố, Trưởng Ban Tổ chức Chính quyền thành phố, Thủ trưởng các Sở, Ban
ngành thành phố, Chủ tịch ủy ban nhân dân quận-huyện có trách nhiệm thi hành
quyết định này./.
Nơi nhận :
- Như điều 3
- Văn phòng Chính phủ - Bộ Nội vụ
- Thường trực Thành ủy
- Thường trực HĐND.TP
- ủy ban nhân dân thành phố
- Thành viên Ban chỉ đạo CCHC. TP
- VPHĐ-UB : CPVP
- Tổ PC, TH, CCHC
- Lưu(CCHC)
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Mai Quốc Bình
|
CHƯƠNG TRÌNH
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH.
(Ban hành kèm theo Quyết định số 119 /2002/QĐ-UB ngày 24 tháng 10 năm 2002 của
ủy ban nhân dân thành phố)
Để triển khai thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 theo Quyết định
số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định
93/2001/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Chính phủ về phân cấp quản lý một số
lĩnh vực cho thành phố Hồ Chí Minh ; nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII và Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân thành phố khóa VI, kỳ họp thứ 7 ; ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh đánh giá khái quát kết quả thực hiện cải cách hành chính theo Nghị quyết số
38/CP ngày 04 tháng 5 năm 1994 của Chính phủ và đề ra Chương cải cách hành
chính giai đoạn 2001-2005 như sau :
I.- ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 38/CP NGÀY 04 THÁNG 5
NĂM 1994 CỦA CHÍNH PHỦ :
1. Đánh giá khái quát kết quả
cải cách hành chính của thành phố theo Nghị quyết số 38/CP ngày 04 tháng 5 năm
1994 của Chính phủ :
Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu thực
hiện cải tiến thủ tục hành chính từ cuối năm 1986 và được triển khai thực hiện
sâu, rộng hơn kể từ sau khi có Nghị quyết số 38/CP ngày 04 tháng 5 năm 1994 của
Chính phủ. Hơn 6 năm qua, cùng với những thành tựu đạt được trong cải cách kinh
tế, công cuộc cải cách hành chính cũng đã đạt được những kết quả quan trọng,
góp phần tác động tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội của
thành phố. Những kết quả có ý nghĩa làm chuyển biến tình hình là :
- Thành phố đã lập danh mục và
rà soát 7.300 văn bản quy phạm pháp luật do ủy ban nhân dân thành phố ban hành,
trong đó ủy ban nhân dân thành phố bãi bỏ 4.463 văn bản và kiến nghị với các Bộ
ngành Trung ương và Chính phủ bổ sung, sửa đổi 103 văn bản ; Sở Tư pháp đã
trình ủy ban nhân dân thành phố đề nghị bãi bỏ 9 biểu mẫu, chỉnh sửa 28 biểu mẫu
và giữ nguyên 16 biểu mẫu thủ tục hành chính dùng cho cơ quan hành chính của quận-huyện
và phường-xã. Sở-ngành thành phố ban hành 1.170 văn bản, trong đó đề nghị bãi bỏ
533 văn bản và đã bãi bỏ 365 văn bản, đã hết hiệu lực 55 văn bản, sửa đổi, bổ
sung 12 văn bản, còn hiệu lực thi hành 327 văn bản và sai thẩm quyền 23 văn bản.
- Thủ tục hành chính đã có bước
cải cách quan trọng, bỏ bớt được nhiều loại giấy tờ không cần thiết. Các cấp,
các ngành của thành phố đã thực hiện công khai hóa quy trình, thủ tục, lệ phí,
thời gian giải quyết hồ sơ. Tiến hành thí điểm việc tách hành chính công và dịch
vụ công tại Quận 1 và Sở Địa chính-Nhà đất. Các quận-huyện đều đã hình thành được
khu hành chính tập trung để thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu”. Hiện tượng
nhũng nhiễu, gây phiền hà dân đã giảm đáng kể. Bước đầu đã thực hiện chương
trình “Chính phủ điện tử “ tại Quận 1 và Sở Kế hoạch và Đầu tư, thông qua việc ứng
dụng có kết quả việc đưa công nghệ thông tin và tiêu chuẩn ISO 9000 vào cấp
phép qua mạng từ đầu năm 2001.
- Tổ chức bộ máy hành chính, sự
nghiệp cấp thành phố đầu năm 1994 có 46 Sở, Ban ngành và đơn vị trực thuộc ủy
ban nhân dân thành phố, trong đó có 25 cơ quan chuyên môn, đến nay qua kiện
toàn, sắp xếp còn lại 19 cơ quan chuyên môn (giảm 6 đơn vị ). Từng bước xây dựng
và hình thành Khu hành chính tập trung của thành phố theo hướng đưa các cơ quan
sở-ngành thành phố về gần khu vực với trụ sở ủy ban nhân dân thành phố. Trước mắt
đã chuyển được một số Sở về Khu hành chính tập trung của thành phố : Sở
Giao thông Công chánh, Sở Địa chính-Nhà đất, Sở Thương mại, Ban Tổ chức Chính
quyền.
- Đối với quận-huyện đầu năm
1994 có 21 Phòng, Ban-theo Nghị định 86/HĐBT ngày 04 tháng 8 năm 1993 của Hội đồng
Bộ trưởng, với biên chế 2.520 người, bình quân có 140 người/quận-huyện ; sau
khi kiện toàn, sắp xếp lại theo Quyết định 442/QĐ-UB-NCVX ngày 25 tháng 01 năm
1995 của ủy ban nhân dân thành phố, quận có 11 Phòng và huyện có 13 Phòng, với
biên chế 2.048 người, bình quân 93 người/quận-huyện (giảm 472 cán bộ) và hiện
nay sắp xếp lại còn 10 Phòng. Trụ sở ủy ban nhân dân các quận-huyện được tu bổ,
nâng cấp thành Khu hành chính tập trung cấp quận-huyện, chuyển các Phòng, Ban về
cùng trụ sở ủy ban nhân dân, từng bước hiện đại hóa công sở, đặc biệt là Phòng
tiếp nhận và trả hồ sơ cho nhân dân, tiết kiệm hàng trăm căn nhà.
- Đối với phường-xã, thị trấn,
thành phố đã sắp xếp lại tổ chức, biên chế theo Quyết định số 231/QĐ-UB ngày 24
tháng 7 năm 1991, Quyết định số 1852/QĐ-UB ngày 10 tháng 12 năm 1993. Trước đó
biên chế của 282 phường- xã, thị trấn có 8.460 người, bình quân 30 người/phường-xã
; về tổ chức có Văn phòng ủy ban nhân dân và 12 Ban. Sau khi sắp xếp đến nay
303 phường-xã, thị trấn hiện có 6.352 người (giảm 2.108 biên chế), bình quân có
21 người/phường-xã, so với định biên theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23
tháng 01 năm 1998 của Chính phủ, biên chế còn thấp hơn 2,80% ; về tổ chức còn 3
Ban : Công an, Quân sự và Ban Tài chính.
- Cùng với việc kiện toàn tổ chức,
tinh giản biên chế hành chính, sự nghiệp từng bước hình thành thể chế kinh tế
phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, thể chế hành chính trên
các lĩnh vực của thành phố từng bước được đổi mới, bắt đầu là đổi mới cơ chế hoạt
động của phường-xã, tiếp theo là thực hiện thí điểm cải cách hành chính theo cơ
chế “một cửa, một dấu” ở cấp quận-huyện và cơ chế “một cửa” đối với một số Sở
ngành trọng điểm và thí điểm thực hiện “khoán biên chế và kinh phí quản lý hành
chính” đối với 10 đơn vị.
- Thành phố đã có nhiều cố gắng
và quyết tâm tách chức năng quản lý sản xuất-kinh doanh ra khỏi chức năng quản
lý hành chính Nhà nước đối với các Sở và quận-huyện. Tiến hành sắp xếp lại các
đơn vị sự nghiệp và đơn vị sản xuất kinh doanh theo Chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng
Chính phủ ; thành lập doanh nghiệp hoạt động công ích theo Nghị định 56 của
Chính phủ ; tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tại thời điểm cuối năm
1995, toàn thành phố có 408 doanh nghiệp Nhà nước, đến nay tổ chức lại thành 7
Tổng Công ty 90 ; 53 doanh nghiệp hoạt động công ích ; 95 doanh nghiệp cổ phần.
- Cải cách hành chính đã tạo
môi trường thuận lợi thúc đẩy nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Để
thích ứng yêu cầu đổi mới kinh tế, đòi hỏi cán bộ, công chức phải đổi mới quan
điểm, nhận thức, phương pháp tổ chức thực hiện công vụ. Thông qua cải cách hành
chính, đặc biệt là việc thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu” ở cấp quận-huyện và
cơ chế “một cửa” ở các Sở ngành trọng điểm, đội ngũ cán bộ, công chức đã được từng
bước “sàng lọc” và trưởng thành về nhiều mặt ; năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm từng bước được nâng cao. Thành phố đã mở nhiều
đợt đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo nhiều loại hình phong phú, trong 5
năm 1995-1999 tổng số cán bộ công chức đã được đào tạo, bồi dưỡng : 21.710 cán
bộ, trong đó quản lý Nhà nước các loại 2.075 người ; chuyên môn, nghiệp vụ các
loại 14.468 người ; về ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ Văn Phòng 4.693 người và
đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài từ 6 tháng trở lên 474 người.
- Công tác quản lý, sử dụng
cán bộ công chức có nhiều tiến bộ. Công tác quy họach, đào tạo cán bộ đạt được
kết quả bước đầu. Các ngành, các cấp đã triển khai thực hiện nghiêm các quy định
của Pháp lệnh Cán bộ Công chức, trong đó thực hiện tuyển dụng đều qua thi tuyển
; bố trí, sử dụng theo chức danh, tiêu chuẩn, năng lực, sở trường của từng người
và yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị ; việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,
công chức được tiến hành hàng năm bảo đảm dân chủ, công khai, chặt chẽ và
nghiêm túc hơn.
Nhìn chung, nhân dân thành phố rất
đồng tình, ủng hộ, phấn khởi, tin tưởng vào sự quyết tâm của Đảng bộ và Chính
quyền các cấp tại thành phố trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, qua
đó đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.
2. Một số tồn tại vướng mắc,
hạn chế cần tiếp tục giải quyết :
- Một bộ phận cán bộ công chức
chưa quan tâm và nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cải
cách hành chính trong quá trình đổi mới và phát triển của thành phố. Do vậy,
chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho công tác cải cách hành chính, đặc biệt
là vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số đơn vị cơ sở, từ đó làm
cho tiến độ và kết quả bị hạn chế.
- Năng lực và hiệu lực quản lý
hành chính Nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện tại trên nhiều lĩnh vực
; kỷ cương lỏng lẻo, tính pháp chế chưa nghiêm, tình trạng cấp dưới thiếu
nghiêm chỉnh chấp hành quyết định của cấp trên vẫn còn biểu hiện ở các cấp, các
ngành.
- Thủ tục hành chính trên một số
lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực có liên quan nhiều đến dân như nhà đất, xây dựng,
quy hoạch, quản lý đô thị, cấp giấy phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp, đăng
ký kinh doanh,. v.v... vẫn chưa thật đơn giản và thông thoáng. Nhiều loại giấy
tờ thuộc thủ tục hành chính chưa được mẫu hóa và thực hiện thống nhất, đồng bộ
trên địa bàn thành phố.
- Chức năng quản lý hành chính
Nhà nước và nghiệp vụ giải quyết dịch vụ hành chính công ở các ngành, các cấp
chưa được phân định rõ ràng, từ đó hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính Nhà nước
và chất lượng dịch vụ phục vụ công chúng trên địa bàn nói chung và trên từng
lĩnh vực nói riêng đều chưa được đáp ứng so với yêu cầu. Việc phân định và tách
dịch vụ công ra khỏi hành chính công, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân
và để xây dựng tổ chức bộ máy gọn nhẹ, tuy có làm, nhưng chưa thống nhất và thiếu
đồng bộ.
- Chức năng, nhiệm vụ quản lý
Nhà nước, hoạt động sự nghiệp cũng như mối quan hệ của một số sở-ngành và Phòng
chuyên môn của quận-huyện vẫn còn có mặt trùng lắp, chồng chéo (điển hình là
trong lĩnh vực quản lý đô thị, xây dựng, đăng ký kinh doanh, đăng ký hành nghề,...).
Sự phân công giữa các ngành, sự phối hợp và phân cấp giữa thành phố với quận-huyện
và giữa quận-huyện với phường-xã, thị trấn trên nhiều lĩnh vực chưa thật rõ
ràng, cụ thể. Vì vậy vẫn còn tình trạng hồ sơ giải quyết chậm tại một số sở-ngành
và quận-huyện.
- Việc sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nước tuy đã tiến hành tích cực, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, cổ
phần hóa còn chậm. Vấn đề tổ chức hoạt động trong các loại hình doanh nghiệp
chưa ổn định, chưa có những bước tiến về công nghệ, hiệu quả hoạt động kinh
doanh.v.v...
- Đội ngũ cán bộ, công chức của
thành phố đã được bố trí, điều chỉnh trong quá trình cải cách hành chính, nhưng
nhìn chung vẫn chưa thật hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Tình
trạng “vừa thừa, vừa thiếu” cán bộ còn diễn ra ở nhiều cơ quan, đơn vị. Còn một
bộ phận cán bộ công chức yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực
chuyên môn, kỹ năng hành chính ; phong cách làm việc và phẩm chất cán bộ công
chức còn biểu hiện quan liêu, bè cánh, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, nhưng
chưa được xử lý kịp thời, từ đó làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chính
quyền và cơ quan Nhà nước.
3. Nguyên nhân của những kết
quả và tồn tại vướng mắc, hạn chế :
Nguyên nhân của kết quả :
- Trước hết là có tư tưởng quyết
tâm đổi mới và sự chỉ đạo cương quyết, thống nhất của lãnh đạo thành phố trong
thực hiện cải cách hành chính.
- Chọn hướng đi đúng, mang tính
đột phá vào những vấn đề bức xúc nhất của tổ chức và người dân. Trước hết thành
phố tiến hành “cải tiến thủ tục hành chính” ở những lĩnh vực trọng điểm. Tiếp
theo là cơ chế “một cửa, một dấu” ở cấp quận-huyện ; cơ chế “một cửa” ở các sở-ngành
trọng điểm và thực hiện thí điểm “khoán biên chế và kinh phí quản lý hành
chính” 10 đơn vị.
- ủy ban nhân dân thành phố và
các sở-ngành và quận-huyện luôn giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức triển khai
thực hiện các chương trình cải cách hành chính theo Nghị quyết của Thành ủy và
Hội đồng nhân dân thành phố.
- Có biện pháp và các bước đi
phù hợp, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác chuẩn bị tư tưởng, làm quán
triệt và thông suốt về mục đích, ý nghĩa, nội dung cải cách hành chính trong nội
bộ từng cơ quan, đơn vị. Nhờ đó, cán bộ, công chức thống nhất được quan điểm,
nhận thức, tham gia thực hiện cải cách hành chính với tinh thần trách nhiệm và
quyết tâm cao. Phương châm tiến hành cải cách hành chính là kiên quyết, khẩn
trương nhưng thận trọng ; thực hiện thí điểm trước để rút kinh nghiệm rồi mới
triển khai đại trà.
Nguyên nhân của tồn tại vướng
mắc, hạn chế :
- Khi tiến hành cải cách hành
chính không ít cơ quan, đơn vị, cán bộ công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo và quản
lý lúc đầu còn ngán ngại, chưa thật nhiệt tình, vì sợ đụng chạm đến lợi ích cục
bộ của đơn vị và của chính bản thân mình. Một bộ phận cán bộ công chức còn thiếu
kiến thức, kinh nghiệm quản lý Nhà nước và chưa tận tâm, do đó còn sức ỳ trong
nếp nghĩ, phong cách làm việc, ảnh hưởng đến kết quả cải cách hành chính.
- Nhận thức về “vai trò của
chính quyền đô thị” và việc xác định các vấn đề trọng yếu trong quản lý phát
triển đô thị của Lãnh đạo các cấp, các ngành thành phố còn hạn chế, chưa thấy hết
được những khó khăn, phức tạp, nội dung công việc để có những biện pháp quản lý
phù hợp.
- Một số chính sách công chưa thật
sự phát huy được nội lực, đặc biệt là chính sách tiền lương đối với cán bộ công
chức còn chưa phù hợp, chưa tạo động lực để cán bộ, công chức phấn đấu vươn
lên.
- Việc triển khai thực hiện một
số chủ trương, chính sách chậm, thiếu nhất quán, đồng bộ.
- Trong quá trình thực hiện cải
cách hành chính, sự chỉ đạo và phối hợp của sở-ngành, quận-huyện, phường-xã, thị
trấn thiếu kiên quyết, thiếu đồng bộ và chưa chặt chẽ nên có việc giải quyết
còn chậm trễ, kém hiệu quả.
- Về khách quan, cải cách hành
chính tiến hành thiếu sự chỉ đạo đồng bộ và thống nhất từ Trung ương đến địa
phương. Vì vậy có nhiều việc địa phương muốn “cải cách” nhưng vướng mắc bởi cơ
chế do các ngành Trung ương quy định.
II.-
MỤC TIÊU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 :
1. Mục tiêu chung :
Xây dựng nền hành chính
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, từng bước
hiện đại hóa nền hành chính, thể hiện rõ bản chất chính quyền của dân, do dân,
vì dân và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
có phẩm chất, có năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của thành phố
; triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị định của Chính phủ về phân cấp quản
lý một số lĩnh vực cho thành phố.
2. Mục tiêu cụ thể :
2.1- Tiếp tục hoàn thiện
thể chế về kinh tế và thể chế hành chính phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã
hội và quản lý hành chính Nhà nước của một đô thị lớn có vị trí ở khu vực và thế
giới. Phấn đấu để đến năm 2005, thành phố cơ bản xây dựng và hoàn thiện hệ thống
các thủ tục, quy trình hành chính mới, tiên tiến, bảo đảm nguyên tắc là đơn giản,
công khai, đúng luật, thống nhất, một cửa, nhanh chóng và thuận tiện, giảm phiền
hà cho người dân và tổ chức, góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội của thành phố
phát triển.
2.2- Tiếp tục kiện
toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy gọn, nhẹ, hợp lý theo hướng quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực, phân cấp và ủy quyền mạnh cho cấp dưới.
2.3- Xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức của thành phố với số luợng và cơ cấu hợp lý, chất
lượng chuyên môn cao và có phẩm chất đạo đức tốt. Đầu tư nhiều hơn cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng để thực hiện kế hoạch quy hoạch ; chú ý chăm lo tạo nguồn
cán bộ dự trữ.
2.4- Từng bước thực hiện
hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước theo chủ trương chung của Chính phủ. Phấn
đấu đến 2005 các cơ quan hành chính từ cấp thành phố đến cấp phường-xã, thị trấn
đều phải thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý
hành chính Nhà nước và phục vụ công chúng ; xây dựng hệ thống thông tin nội bộ
và nối mạng diện rộng, phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước kịp thời và thông suốt.
2.5- Đổi mới cơ chế tài
chính theo tiến trình chung của cả nước, đồng thời có những bước đi phù hợp để
hỗ trợ và phục vụ cho chương trình cải cách hành chính của thành phố.
III.-
NỘI DUNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 :
Để thực hiện 4 nội dung
và 7 Chương trình hành động Quốc gia theo Quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 17
tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ và những nội dung được Chính phủ phân
cấp cho thành phố tại Nghị định 93/2001/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 ; trong
5 năm tới 2001-2005 thành phố thực hiện cải cách hành chính với những nội dung
trọng tâm sau đây :
1. Cải cách thể chế
hành chính :
1.1- Các ngành, các cấp
thành phố tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do Trung ương, thành
phố và quận-huyện ban hành trên tất cả các lĩnh vực để kiến nghị sửa đổi hoặc sửa
đổi theo thẩm quyền, qua đó điều chỉnh những văn bản không còn phù hợp hoặc bãi
bỏ những văn bản trái với pháp luật hiện hành, trong đó cần tập trung :
- Tăng cường năng lực của
sở-ngành, ủy ban nhân dân quận-huyện trong việc xây dựng và ban hành văn bản bằng
cách, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức, nắm vững pháp luật ; đổi mới quy
trình, phương thức xây dựng văn bản.
- Các văn bản quy phạm
pháp luật quy định các quy trình, thủ tục, chính sách liên quan đến công dân phải
được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân bằng nhiều hình thức để
công dân và các tổ chức có điều kiện tìm hiểu, thực hiện và giám sát việc thực
hiện của các cơ quan Nhà nước.
1.2- Xây dựng và ban
hành các quy trình quản lý quy hoạch, giao thông công chánh, đầu tư xây dựng, địa
chính-nhà đất ; các định mức, tiêu chuẩn, quy phạm, quy chuẩn của các lĩnh vực
quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân thành
phố được phân cấp theo Nghị định 93/2001/NĐ-CP của Chính phủ. Tiếp tục hoàn chỉnh
và công khai hóa việc quy hoạch đô thị trên từng địa bàn khu vực, để làm cơ sở
quản lý và phát triển theo quy hoạch chung.
1.3- Thực hiện mẫu hóa
thống nhất trên địa bàn thành phố tất cả các loại giấy tờ thuộc thủ tục hành
chính theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của các Bộ ngành Trung ương.
1.4- Tiếp tục hoàn thiện
và nâng cao cơ chế “một cửa, một dấu” ở cấp quận-huyện ; mở rộng cơ chế “một cửa”
ở các sở-ngành trong việc giải quyết công việc của nhân dân và tổ chức. Từng bước
tách dịch vụ công và hành chính công ; kiện toàn bộ phận tiếp dân, tiếp nhận
đơn, thư khiếu nại, tố cáo ; giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến công
dân và tổ chức. Cơ quan hành chính các cấp của thành phố phải duy trì việc niêm
yết công khai, đầy đủ mọi quy trình, thủ tục, lệ phí, lịch tiếp dân,… tại trụ sở
làm việc để nhân dân biết, liên hệ khi có yêu cầu giải quyết công việc và tham
gia kiểm tra việc thực hiện. Hoàn thiện quy trình giải quyết khiếu nại tố cáo của
công dân từ cấp cơ sở đến thành phố.
1.5- Xây dựng các quy
trình phối hợp kết nối liên ngành giữa các cấp, các ngành liên quan để phối hợp
giải quyết các nhu cầu hành chính của tổ chức và người dân, trên cơ sở ứng dụng
công nghệ thông tin.
1.6- Tổng kết kinh nghiệm
và triển khai nhân rộng các mô hình tốt qua quá trình thực hiện cải cách hành
chính và ứng dụng công nghệ thông tin ở các sở-ngành và quận-huyện của thành phố.
Tiếp tục chọn và thực hiện thí điểm có tính chất đột phá một số lĩnh vực, đặc
biệt là các lĩnh vực hành chính mà người dân và tổ chức đang đòi hỏi thật sự cấp
bách.
2. Cải cách bộ máy
hành chính :
2.1- Tiếp tục kiện toàn,
sắp xếp lại một số các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân thành phố và
các Phòng thuộc ủy ban nhân dân quận-huyện theo Quyết định số 124/QĐ-UB ngày 14
tháng 12 năm 2001 của ủy ban nhân dân thành phố.
- Xây dựng lại Quy chế tổ
chức và hoạt động của sở-ngành thành phố, ủy ban nhân dân và các Phòng thuộc quận-huyện
; ủy ban nhân dân các phường-xã, thị trấn ; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, đơn vị và của các bộ phận cấu thành ; phân định rõ chế độ
trách nhiệm đơn vị và trách nhiệm cá nhân ; xác định các mối quan hệ và lề lối
làm việc có sự phân công hợp lý ; tránh chồng chéo nhiệm vụ, đùn đẩy trách nhiệm,
đồng thời tránh lạm quyền. Riêng cấp quận-huyện sẽ thực hiện tách chức năng quản
lý hành chính công với chức năng dịch vụ công của các Phòng, Ban trực thuộc, nhằm
từng bước chuyên môn hóa công chức và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của tổ chức và
người dân trong dịch vụ hành chính công, đồng thời nâng cao năng lực quản lý
hành chính Nhà nước theo ngành và lĩnh vực công tác.
- Kiện toàn bộ máy chính
quyền phường-xã, thị trấn tinh gọn theo hướng làm rõ trách nhiệm của tập thể và
cá nhân. Đổi mới phương thức hoạt động để sát với dân hơn và phù hợp với tính
chất quản lý hành chính Nhà nước về kinh tế-xã hội ở địa bàn dân cư, thực hiện
tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cơ quan và doanh nghiệp. Hướng dẫn thực hiện cơ chế
phường của 5 quận mới theo Quyết định số 94/2001/QĐ-UB ngày 25 tháng 10 năm
2001 của ủy ban nhân dân thành phố.
2.2- Tinh giản biên chế
hành chính, sự nghiệp : Xác định biên chế phù hợp với cơ cấu bộ máy đã được sắp
xếp lại theo chức danh và tiêu chuẩn cụ thể. Tiếp tục thực hiện tinh giản biên
chế hành chính, sự nghiệp theo Nghị quyết Trung ương 7 (Khoá VIII).
2.3- Nghiên cứu hình
thành tổ chức các đơn vị thực hiện một số loại hình dịch vụ công để tách dịch vụ
công ra khỏi hành chính công trong nhiều lĩnh vực Nhà đất, Xây dựng, Lao động-Thương
binh và Xã hội, Giao thông Công chánh, Công nghiệp, Thương mại,...
2.4- Nghiên cứu chọn
phương án phù hợp việc thành lập Trung tâm Thông tin địa lý (GIS) của thành phố.
Xây dựng và hình thành các Trung tâm Đăng ký và Thông tin địa chính ; Trung tâm
Giao dịch bất động sản ; Trung tâm hoặc Công ty tư vấn định giá bất động sản ;
xây dựng đề án về tổ chức và cơ chế hoạt động để quản lý và điều tiết thị trường
bất động sản của thành phố.
2.5- Thực hiện phân cấp
quản lý cho quận-huyện, phường-xã, thị trấn phù hợp với chức năng và điều kiện
quản lý của từng địa phương, theo Nghị định số 93/2001/NĐ-CP của Chính phủ. Trước
mắt cần tập trung :
- Triển khai phân cấp quản
lý cho quận-huyện quản lý với mức độ hợp lý ở các lĩnh vực : giao thông công
chánh, xây dựng, nhà đất, y tế, giáo dục, đăng ký kinh doanh, văn hóa thông
tin, tiến hành thí điểm đấu thầu một số lĩnh vực dịch vụ đô thị. Trong phân cấp
cần định rõ những loại việc quận-huyện toàn quyền quyết định, những việc trước
khi quận-huyện quyết định phải có ý kiến của sở-ngành hoặc ủy ban nhân dân
thành phố và những việc phải thực hiện theo quyết định của ủy ban nhân dân
thành phố, đồng thời thống nhất quản lý theo ngành chuyên môn.
- Các quận-huyện nghiên
cứu phân cấp quản lý cho phường-xã, thị trấn những mặt công tác phù hợp và có
khả năng đảm nhận được để thực hiện tốt hơn ở quận-huyện. Chủ tịch ủy ban nhân
dân quận-huyện đề xuất và xây dựng phương án phân cấp cụ thể, trình ủy ban nhân
dân thành phố xem xét, quyết định.
2.6- Củng cố và sắp xếp
lại các doanh nghiệp Nhà nước :
- Xây dựng phương án xác
định các lĩnh vực, ngành nghề cần duy trì doanh nghiệp Nhà nước với các loại mức
sở hữu khác nhau.
- Củng cố và sắp xếp lại
các doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình Công ty mẹ-Công ty con, Công ty cổ phần
và giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước.
- Xây dựng Đề án định hướng
phát triển Thương mại-dịch vụ trên địa bàn thành phố giai đoạn 2001-2005.
2.7- Thực hiện từng bước
hiện đại hóa nền hành chính :
Tổ chức triển khai việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý Nhà nước ở các ngành, các cấp
theo chỉ đạo của ủy ban nhân dân thành phố. Từng bước đầu tư phát triển trên diện
rộng tin học hóa quản lý Nhà nước - Chính phủ điện tử nhằm cung cấp thông tin
cho các tổ chức và công dân một cách nhanh chóng và thuận tiện. Phấn đấu đến
2005, tất cả các phường-xã, thị trấn được trang bị phương tiện làm việc tương đối
hiện đại, xây dựng xong hệ thống thông tin quản lý của từng đơn vị và được nối
mạng diện rộng với quận-huyện, nối mạng giữa các sở-ngành thành phố và Chính phủ,
thực hiện ứng dụng ISO 9001: 2000 đối với sở-ngành và quận-huyện có đủ điều kiện.
Xây dựng mạng thông tin thành phố để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, tạo điều
kiện để nhân dân nắm bắt kịp thời các quy định chính sách của Nhà nước.
3. Xây dựng và quản
lý đội ngũ cán bộ, công chức :
3.1- Xây dựng và quản lý
đội ngũ cán bộ, công chức :
3.1.1- Thực hiện đề án
“Bảo đảm nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị của thành phố giai đoạn 2001-2005”,
trong đó có Chương trình đào tạo 300 Tiến sĩ, Thạc sĩ và 1.000 Giám đốc doanh
nghiệp.
3.1.2- Triển khai thực
hiện Đề án về quản lý và phát triển cán bộ nữ của thành phố.
3.1.3- Thực hiện chế độ
tuyển dụng cán bộ, công chức vào các cơ quan Nhà nước các cấp của thành phố một
cách chặt chẽ thông qua thi tuyển. Mỗi công chức đều có chức danh và tiêu chuẩn
cụ thể. Mọi công dân có đủ tiêu chuẩn đều có cơ hội thi tuyển vào làm việc ở
các cơ quan Nhà nước như Pháp Lệnh Cán bộ Công chức quy định. Thực hiện sự phân
định trong việc quản lý công chức hành chính và công chức sự nghiệp.
3.1.4- Củng cố, tăng cường
và nâng cao năng lực của các cơ quan và cán bộ làm công tác tổ chức ở các
ngành, các cấp của thành phố.
3.1.5- Nghiên cứu xây dựng
quy chế về thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức, cán bộ của thành phố.
3.1.6- Tổ chức thực hiện
thí điểm tuyển chọn cán bộ công chức để bổ nhiệm vào một số chức danh quản lý của
sở-ngành và quận-huyện, tiến hành thông qua việc thi tuyển hoặc thông qua hình
thức xây dựng và bảo vệ đề án theo chuyên đề.
3.2- Đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực :
3.2.1- Xây dựng và thực
hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính Nhà
nước trên cơ sở theo quy hoạch và yêu cầu của các ngành, các cấp : cán bộ, công
chức làm nhiệm vụ tham mưu cho Lãnh đạo các cấp ; cán bộ, công chức các ngạch
hành chính, sự nghiệp và cán bộ chính quyền cơ sở. Kết hợp đào tạo chính quy với
các hình thức đào tạo không chính quy, đào tạo trong nước và gửi đi đào tạo ở
nước ngoài. Khuyến khích cán bộ, công chức tự học có sự giúp đỡ của Nhà nước.
3.2.2- Tăng cường đầu tư
các nguồn lực cho Trường Cán bộ thành phố để đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy và học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới. Hoàn chỉnh giáo trình đào tạo bổ sung kỹ năng quản lý và
điều hành cho đội ngũ cán bộ trung cao cấp.
3.2.3- Tổ chức các lớp
đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng sau đây :
- Định kỳ mở các lớp bồi
dưỡng chuyên viên, cán sự theo chương trình quy định của Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ tại Trường Cán bộ thành phố.
- Lập kế hoạch gửi cán bộ
quản lý và chuyên viên chính đi học ở Học viện Hành chính Quốc gia theo phân cấp
đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài các lớp chung theo kế hoạch của Học Viện, thành phố
phối hợp với Học Viện mở thêm các lớp bồi dưỡng trung, cao cấp quản lý Nhà nước
và kỹ năng quản lý điều hành riêng cho thành phố.
- Phối hợp với Học viện
Hành chính Quốc gia mở một số lớp theo chương trình cử nhân hành chính và cao học
hành chính.
- Thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức và kỹ năng hành chính cho tất cả cán bộ, công chức làm việc ở
các cơ quan quản lý hành chính các cấp của thành phố bằng các hình thức tập
trung dài hạn và tại chức.
- Xây dựng và thực hiện
kế hoạch bồi dưỡng kiến thức kinh tế đối ngoại, kiến thức quản trị kinh doanh
và chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và cán bộ cử tham gia liên doanh với
nước ngoài.
Phấn đấu đến năm 2005,
có 100% công chức đều qua các lớp học về quản lý Nhà nước.
- Tiếp tục mở các lớp học
ngoại ngữ trình độ A,B,C và nâng cao cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp
của thành phố.
- Định kỳ hàng năm mở lớp
cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Thường xuyên mở các lớp
đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về tin học các trình độ cho cán bộ, công
chức các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước các cấp của thành phố. Phấn đấu đến
2005, có 100% cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý từ thành phố đến cơ sở và có ít
nhất 2/3 số cán bộ, công chức chuyên môn ở các ngành, các cấp đều biết sử dụng
máy vi tính.
3.2.4- Nghiên cứu, xây dựng
chương trình đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa các chức danh chuyên môn phù hợp
chính quyền phường-xã, thị trấn.
3.3- Thực hiện chế độ,
chính sách đãi ngộ :
3.3.1- Tổ chức thực hiện
tốt các chính sách tiền lương, tiền thưởng, chế độ phụ cấp,... đối với cán bộ,
công chức theo quy định của Chính phủ ; đồng thời nghiên cứu đặc thù của thành
phố để kiến nghị với Chính phủ hoặc đề ra chính sách có tính khuyến khích đối với
cán bộ công chức của thành phố.
3.3.2- Thực hiện tổng kết
hoạt động khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính ở các đơn vị đã được thực
hiện thí điểm, đồng thời mở rộng thực hiện khoán đối với các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp và ở phường-xã, thị trấn.
3.3.3- Có chính sách đãi
ngộ thỏa đáng để thu hút nhân tài cho những người có trình độ cao vào làm việc
trên địa bàn thành phố. Có chính sách khuyến khích đối với cán bộ, công chức
làm việc ở vùng khó khăn.
3.3.4- Quản lý dân cư và
lao động : tạo việc làm, giảm thất nghiệp, từng bước quản lý và điều tiết thị
trường lao động để phát triển kinh tế-xã hội.
4. Cải cách tài chính
công :
4.1- Tổ chức thực hiện
các quy định của Chính phủ, Bộ Tài chính về phân cấp quản lý tài chính, ngân
sách, bảo đảm tính thống nhất của quan hệ tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo
của ngân sách Trung ương, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của sở-ngành, quận-huyện trong việc cải thiện nguồn thu của địa phương, sử
dụng tài chính và ngân sách. Xây dựng cơ chế quản lý tài chính và định mức chi
của ngành, của địa phương, từ đó từng bước mở rộng việc khoán chi cho các đơn vị
hành chính, sự nghiệp khi có đủ điều kiện.
4.2- Thực hiện thí điểm
để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới :
- Cho thuê đơn vị sự
nghiệp công, cho thuê đất để xây dựng cơ sở trường học, bệnh viện. Các sở-ngành
có đơn vị sự nghiệp đề xuất và xây dựng đề án trình ủy ban nhân dân thành phố
xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể.
- Tổ chức thực hiện xã hội
hoá bằng hình thức đấu thầu một số loại dịch vụ công như : Chợ, vệ sinh đô thị,
cấp thoát nước, cây xanh công viên, nước phục vụ nông nghiệp,... Mở rộng các hình
thức tổ chức bán công để đỡ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
- Thực hiện thí điểm mô
hình dịch vụ hành chính công có thu dịch vụ phí, khi được ủy ban nhân dân thành
phố chấp thuận đề án và cơ chế thu.
4.3- Xây dựng đề án về tổ
chức và quy chế hoạt động của thị trường vốn, nhằm huy động nguồn vốn đầu tư
trong xã hội, vốn trong nước và vốn nước ngoài, từng bước hình thành hệ thống
quản lý, điều tiết thị trường vốn.
IV.-
TỔ CHỨC THỰC HIỆN :
1. Củng cố và kiện toàn
nhân sự Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính thành phố, trong đó hình thành bộ phận
chuyên trách từ 3 đến 5 cán bộ, để giúp việc Ban Chỉ đạo. Theo đó, các sở-ngành
thành phố và ủy ban nhân dân các quận-huyện cũng đồng thời kiện toàn Ban Chỉ đạo
Cải cách Hành chính và duy trì hoạt động, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
công tác cải cách hành chính ở địa phương và đơn vị.
2. Phân công tổ chức thực
hiện :
2.1- Cải cách thể chế
hành chính :
- Cơ quan chủ trì : Sở
Tư pháp thành phố.
- Cơ quan phối hợp : Văn
phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thành phố ; Ban Tổ chức Chính quyền
thành phố ; các sở-ngành có liên quan.
2.2- Cải cách bộ máy
hành chính :
- Cơ quan chủ trì : Ban
Tổ chức Chính quyền thành phố thực hiện nội dung các điểm 2.1, 2.2, 2.3, 2.4,
2.5 - Mục III.
- Ban Đổi mới quản lý
doanh nghiệp thành phố thực hiện nội dung điểm 2.6 - Mục III.
- Văn phòng Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân thành phố thực hiện nội dung điểm 2.7- Mục III.
- Cơ quan phối hợp : Mời
Ban Tổ chức Thành ủy tham gia, các sở-ngành thành phố và ủy ban nhân dân quận-huyện
có liên quan.
2.3- Xây dựng và quản lý
đội ngũ cán bộ, công chức :
- Ban Tổ chức Chính quyền
thành phố chủ trì và phối hợp với Sở Khoa học-Công nghệ và Môi trường, cơ quan
liên quan thực hiện các nội dung của điểm 3- Mục III.
- Cơ quan phối hợp : Mời
Ban Tổ chức Thành ủy tham gia, Trường Cán bộ thành phố.
2.4- Cải cách tài chính
công :
- Sở Tài chánh-Vật giá
thành phố chủ trì và phối hợp với các sở-ngành có liên quan tổ chức thực hiện
các nội dung của điểm 4-Mục III.
3. Trách nhiệm tổ chức
thực hiện :
3.1- Ban Chỉ đạo cải
cách hành chính thành phố có trách nhiệm hướng dẫn triển khai và đôn đốc thực
hiện Chương cải cách hành chính giai đoạn 2001-2005 và hàng năm của thành phố.
3.2- Các cơ quan được
giao chủ trì các nội dung cải cách hành chính có trách nhiệm phối hợp với các
cơ quan có liên quan xây dựng thành các chương trình hành động cụ thể về nội
dung cải cách hành chính phù hợp và gắn với 7 Chương trình hành động Quốc gia,
chậm nhất hết quý I/2003 phải hoàn chỉnh và trình ủy ban nhân dân thành phố xét
duyệt để tổ chức thực hiện.
3.3- Thường trực Ban Chỉ
đạo Cải cách Hành chính thành phố lập dự trù kinh phí thực hiện cải cách hành
chính hàng năm để trình Thường trực ủy ban nhân dân thành phố xem xét thông qua
và định kỳ báo cáo Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố kết quả thực hiện.
3.4- Định kỳ 6 tháng và
hàng năm, các Sở, Ban ngành thành phố và ủy ban nhân dân các quận-huyện phải tổ
chức sơ, tổng kết công tác cải cách hành chính ở đơn vị mình và gởi báo cáo về
Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính thành phố để theo dõi, tổng hợp và
báo cáo trình ủy ban nhân dân thành phố.
3.5- Trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ của đơn vị mình và chương trình cải cách hành chính giai đoạn
2001-2005 của thành phố, Giám đốc các Sở-Ban ngành thành phố, Chủ tịch ủy ban nhân
dân quận-huyện, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị của thành phố có trách nhiệm xây
dựng chương trình cải cách hành chính hàng năm để tổ chức thực hiện một cách
nghiêm túc và thật sự có kết quả./.
ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH