Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Quyết định 119/2002/QĐ-UB về chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2005 của thành phố Hồ Chí Minh do Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành

Số hiệu 119/2002/QĐ-UB
Ngày ban hành 24/10/2002
Ngày có hiệu lực 24/10/2002
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký Mai Quốc Bình
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 119/2002/QĐ-UB

TP.Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 2002 

 

QUYẾT ĐỊNH

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ngày 21 tháng 6 năm 1994 ;
Căn cứ Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 ;
Căn cứ Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Chính phủ về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho thành phố Hồ Chí Minh ;
Nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Khóa VI, kỳ họp thứ 7 ;
Xét đề nghị của Trưởng Ban Tổ chức Chính quyền thành phố (Tờ trình số 41/TCCQ ngày 16 tháng 4 năm 2002) và Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính thành phố ;

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1.- Nay ban hành kèm theo quyết định này “Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2005 của thành phố Hồ Chí Minh”.

Điều 2.- Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 3.- Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thành phố, Trưởng Ban Tổ chức Chính quyền thành phố, Thủ trưởng các Sở, Ban ngành thành phố, Chủ tịch ủy ban nhân dân quận-huyện có trách nhiệm thi hành quyết định này./.

 


Nơi nhận :
 - Như điều 3
 - Văn phòng Chính phủ - Bộ Nội vụ
- Thường trực Thành ủy
- Thường trực HĐND.TP
- ủy ban nhân dân thành phố
- Thành viên Ban chỉ đạo CCHC. TP
- VPHĐ-UB : CPVP
- Tổ PC, TH, CCHC
 - Lưu(CCHC)

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH



 
Mai Quốc Bình

 

CHƯƠNG TRÌNH

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
(Ban hành kèm theo Quyết định số 119 /2002/QĐ-UB ngày 24 tháng 10 năm 2002 của ủy ban nhân dân thành phố)

Để triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định 93/2001/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Chính phủ về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho thành phố Hồ Chí Minh ; nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố khóa VI, kỳ họp thứ 7 ; ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đánh giá khái quát kết quả thực hiện cải cách hành chính theo Nghị quyết số 38/CP ngày 04 tháng 5 năm 1994 của Chính phủ và đề ra Chương cải cách hành chính giai đoạn 2001-2005 như sau :

I.- ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 38/CP NGÀY 04 THÁNG 5 NĂM 1994 CỦA CHÍNH PHỦ :

1. Đánh giá khái quát kết quả cải cách hành chính của thành phố theo Nghị quyết số 38/CP ngày 04 tháng 5 năm 1994 của Chính phủ :

Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu thực hiện cải tiến thủ tục hành chính từ cuối năm 1986 và được triển khai thực hiện sâu, rộng hơn kể từ sau khi có Nghị quyết số 38/CP ngày 04 tháng 5 năm 1994 của Chính phủ. Hơn 6 năm qua, cùng với những thành tựu đạt được trong cải cách kinh tế, công cuộc cải cách hành chính cũng đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tác động tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội của thành phố. Những kết quả có ý nghĩa làm chuyển biến tình hình là :

- Thành phố đã lập danh mục và rà soát 7.300 văn bản quy phạm pháp luật do ủy ban nhân dân thành phố ban hành, trong đó ủy ban nhân dân thành phố bãi bỏ 4.463 văn bản và kiến nghị với các Bộ ngành Trung ương và Chính phủ bổ sung, sửa đổi 103 văn bản ; Sở Tư pháp đã trình ủy ban nhân dân thành phố đề nghị bãi bỏ 9 biểu mẫu, chỉnh sửa 28 biểu mẫu và giữ nguyên 16 biểu mẫu thủ tục hành chính dùng cho cơ quan hành chính của quận-huyện và phường-xã. Sở-ngành thành phố ban hành 1.170 văn bản, trong đó đề nghị bãi bỏ 533 văn bản và đã bãi bỏ 365 văn bản, đã hết hiệu lực 55 văn bản, sửa đổi, bổ sung 12 văn bản, còn hiệu lực thi hành 327 văn bản và sai thẩm quyền 23 văn bản.

- Thủ tục hành chính đã có bước cải cách quan trọng, bỏ bớt được nhiều loại giấy tờ không cần thiết. Các cấp, các ngành của thành phố đã thực hiện công khai hóa quy trình, thủ tục, lệ phí, thời gian giải quyết hồ sơ. Tiến hành thí điểm việc tách hành chính công và dịch vụ công tại Quận 1 và Sở Địa chính-Nhà đất. Các quận-huyện đều đã hình thành được khu hành chính tập trung để thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu”. Hiện tượng nhũng nhiễu, gây phiền hà dân đã giảm đáng kể. Bước đầu đã thực hiện chương trình “Chính phủ điện tử “ tại Quận 1 và Sở Kế hoạch và Đầu tư, thông qua việc ứng dụng có kết quả việc đưa công nghệ thông tin và tiêu chuẩn ISO 9000 vào cấp phép qua mạng từ đầu năm 2001.

- Tổ chức bộ máy hành chính, sự nghiệp cấp thành phố đầu năm 1994 có 46 Sở, Ban ngành và đơn vị trực thuộc ủy ban nhân dân thành phố, trong đó có 25 cơ quan chuyên môn, đến nay qua kiện toàn, sắp xếp còn lại 19 cơ quan chuyên môn (giảm 6 đơn vị ). Từng bước xây dựng và hình thành Khu hành chính tập trung của thành phố theo hướng đưa các cơ quan sở-ngành thành phố về gần khu vực với trụ sở ủy ban nhân dân thành phố. Trước mắt đã chuyển được một số Sở về Khu hành chính tập trung của thành phố : Sở Giao thông Công chánh, Sở Địa chính-Nhà đất, Sở Thương mại, Ban Tổ chức Chính quyền.

- Đối với quận-huyện đầu năm 1994 có 21 Phòng, Ban-theo Nghị định 86/HĐBT ngày 04 tháng 8 năm 1993 của Hội đồng Bộ trưởng, với biên chế 2.520 người, bình quân có 140 người/quận-huyện ; sau khi kiện toàn, sắp xếp lại theo Quyết định 442/QĐ-UB-NCVX ngày 25 tháng 01 năm 1995 của ủy ban nhân dân thành phố, quận có 11 Phòng và huyện có 13 Phòng, với biên chế 2.048 người, bình quân 93 người/quận-huyện (giảm 472 cán bộ) và hiện nay sắp xếp lại còn 10 Phòng. Trụ sở ủy ban nhân dân các quận-huyện được tu bổ, nâng cấp thành Khu hành chính tập trung cấp quận-huyện, chuyển các Phòng, Ban về cùng trụ sở ủy ban nhân dân, từng bước hiện đại hóa công sở, đặc biệt là Phòng tiếp nhận và trả hồ sơ cho nhân dân, tiết kiệm hàng trăm căn nhà.

- Đối với phường-xã, thị trấn, thành phố đã sắp xếp lại tổ chức, biên chế theo Quyết định số 231/QĐ-UB ngày 24 tháng 7 năm 1991, Quyết định số 1852/QĐ-UB ngày 10 tháng 12 năm 1993. Trước đó biên chế của 282 phường- xã, thị trấn có 8.460 người, bình quân 30 người/phường-xã ; về tổ chức có Văn phòng ủy ban nhân dân và 12 Ban. Sau khi sắp xếp đến nay 303 phường-xã, thị trấn hiện có 6.352 người (giảm 2.108 biên chế), bình quân có 21 người/phường-xã, so với định biên theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 1998 của Chính phủ, biên chế còn thấp hơn 2,80% ; về tổ chức còn 3 Ban : Công an, Quân sự và Ban Tài chính.

- Cùng với việc kiện toàn tổ chức, tinh giản biên chế hành chính, sự nghiệp từng bước hình thành thể chế kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, thể chế hành chính trên các lĩnh vực của thành phố từng bước được đổi mới, bắt đầu là đổi mới cơ chế hoạt động của phường-xã, tiếp theo là thực hiện thí điểm cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu” ở cấp quận-huyện và cơ chế “một cửa” đối với một số Sở ngành trọng điểm và thí điểm thực hiện “khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính” đối với 10 đơn vị.

- Thành phố đã có nhiều cố gắng và quyết tâm tách chức năng quản lý sản xuất-kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý hành chính Nhà nước đối với các Sở và quận-huyện. Tiến hành sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp và đơn vị sản xuất kinh doanh theo Chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ ; thành lập doanh nghiệp hoạt động công ích theo Nghị định 56 của Chính phủ ; tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tại thời điểm cuối năm 1995, toàn thành phố có 408 doanh nghiệp Nhà nước, đến nay tổ chức lại thành 7 Tổng Công ty 90 ; 53 doanh nghiệp hoạt động công ích ; 95 doanh nghiệp cổ phần.

- Cải cách hành chính đã tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Để thích ứng yêu cầu đổi mới kinh tế, đòi hỏi cán bộ, công chức phải đổi mới quan điểm, nhận thức, phương pháp tổ chức thực hiện công vụ. Thông qua cải cách hành chính, đặc biệt là việc thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu” ở cấp quận-huyện và cơ chế “một cửa” ở các Sở ngành trọng điểm, đội ngũ cán bộ, công chức đã được từng bước “sàng lọc” và trưởng thành về nhiều mặt ; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm từng bước được nâng cao. Thành phố đã mở nhiều đợt đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo nhiều loại hình phong phú, trong 5 năm 1995-1999 tổng số cán bộ công chức đã được đào tạo, bồi dưỡng : 21.710 cán bộ, trong đó quản lý Nhà nước các loại 2.075 người ; chuyên môn, nghiệp vụ các loại 14.468 người ; về ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ Văn Phòng 4.693 người và đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài từ 6 tháng trở lên 474 người.

- Công tác quản lý, sử dụng cán bộ công chức có nhiều tiến bộ. Công tác quy họach, đào tạo cán bộ đạt được kết quả bước đầu. Các ngành, các cấp đã triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Pháp lệnh Cán bộ Công chức, trong đó thực hiện tuyển dụng đều qua thi tuyển ; bố trí, sử dụng theo chức danh, tiêu chuẩn, năng lực, sở trường của từng người và yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị ; việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức được tiến hành hàng năm bảo đảm dân chủ, công khai, chặt chẽ và nghiêm túc hơn.

Nhìn chung, nhân dân thành phố rất đồng tình, ủng hộ, phấn khởi, tin tưởng vào sự quyết tâm của Đảng bộ và Chính quyền các cấp tại thành phố trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, qua đó đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.

2. Một số tồn tại vướng mắc, hạn chế cần tiếp tục giải quyết :

[...]