1. Về kinh tế:
- Phấn đấu GDP bình quân đầu người
đạt 406 USD vào năm 2000; và đạt 1.337 USD vào năm 2010.
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế
bình quân hàng năm đạt 14,5% từ nay đến năm 2000 và đạt 15% giai đoạn 2001 -
2010.
- Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng
bình quân hàng năm từ 25% đến 30% trong suốt giai đoạn từ nay đến năm 2010.
- Tỷ lệ tích luỹ từ GDP phấn đấu
đến năm 2000 đạt 10%, và đến năm 2010 đạt trên 19%.
Về xã hội:
- Phấn đấu giảm tỷ lệ sinh đẻ,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đa dạng hoá hình thức đào tạo để
nâng cao dân trí, trình độ học vấn, nâng số lao động được đào tạo lên 16% vào
năm 2000, và đạt 35% vào năm 2010, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- Phấn đấu nâng tỷ lệ trẻ em ở độ
tuổi giáo dục mầm non được tiếp nhận vào nhà trẻ và mẫu giáo; bảo đảm trẻ em từ
6 đến 14 tuổi đều được đi học;
- Phát triển mạng lưới y tế cơ sở
và chú trọng chăm sóc sức khoẻ cho người dân.
- Bảo đảm tốt các nhu cầu về điện,
nước, đi lại, thông tin liên lạc, đáp ứng các điều kiện sống cơ bản cho nhân
dân, đặc biệt dân cư vùng nông thôn, vùng núi cao, hải đảo và vùng bãi ngang
ven biển. Thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hoá gắn với cộng đồng,
bài trừ các tệ nạn xã hội.
- Phấn đấu giải quyết cơ bản việc
làm cho người lao động, thực hiện tốt mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
- Phát triển kinh tế - xã hội phải
gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững.
3. Về an ninh quốc phòng:
- Phát triển kinh tế phải đi đôi
với củng cố quốc phòng và bảo đảm an ninh chính trị, giữ vững chủ quyền đất nước
thông qua sử dụng hợp lý, có hiệu quả các tiềm năng và nguồn lực.
- Giữ gìn kỷ cương phép nước, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
đất nước.
1. Về kết cấu hạ tầng cơ sở:
Xây dựng mới đi đôi với cải tạo
kết cấu hạ tầng cơ sở đô thị và nông thôn. Chú trọng mạng lưới giao thông nông
thôn và miền núi, biên giới, tạo điều kiện phát triển cho vùng khó khăn, căn cứ
kháng chiến cũ.
Xây dựng giải hành lang ven biển
gắn kết với trục quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, cảng biển, sân bay, thiết lập
đầu mối giao thông từ cảng đến vùng Tây Nguyên theo các trục đường quốc lộ 14B,
đường quốc lộ 24, với Lào, đông bắc Thái Lan và đông bắc Cămpuchia theo trục đường
xuyên á.
Phát triển hệ thống cảng biển:
Thuận An, Tiên Sa, Sông Hàn, Kỳ Hà, Sa Kỳ; từng bước xây dựng và hiện đại hoá
ba cảng nước sâu: Dung Quất, Liên Chiểu, Chân Mây.
Từng bước hiện đại hoá các sân
bay: Đà Nẵng, Phú Bài, cải tạo sân bay Chu Lai phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá và hiện đại hoá.
Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống
cấp, thoát nước các khu công nghiệp, cụm công nghiệp: Dung Quất, Đà Nẵng, Thừa
Thiên - Huế, Quảng Nam, Chân Mây. Chú trọng giải quyết nước sạch cho khu vực
thành thị và nông thôn.
Cải tạo và làm mới các công
trình thuỷ lợi đầu nguồn một số sông để giữ nước ngọt, điều tiết, kiểm soát lũ,
chống nhiễm mặn, bảo đảm tưới tiêu cho sản xuất và nhu cầu dân sinh.
Về mạng lưới điện: Đầu tư xây dựng
các trạm biến thế cho các khu công nghiệp, phát triển mạng lưới điện các tỉnh
và vùng kết hợp với mạng lưới điện quốc gia. Đồng thời phát triển lưới điện phục
vụ công nghiệp chế biến và tiêu dùng nông thôn.
Về bưu chính viễn thông: Xây dựng
hoàn chỉnh và hiện đại hoá mạng lưới thông tin viễn thông nhằm đáp ứng nhu cầu
liên lạc trong, ngoài vùng và giao lưu quốc tế. Phấn đấu đạt 3,5 máy trên 100
dân vào năm 2000; và đạt 13,4 máy trên 100 dân vào năm 2010.
Về tổ chức không gian lãnh thổ:
Nâng cấp và phát triển các thành phố, thị xã, thị trấn hiện có. Xây dựng các đô
thị mới, chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát triển thành phố Huế và Đà Nẵng. Tổ
chức không gian đô thị theo các hành lang phát triển; đồng thời tổ chức phát
triển các điểm dân cư khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các
dân tộc ít người, tạo điều kiện cho sự phát triển đồng đều trong vùng và chung
cả nước.
2. Về phát triển ngành nông,
lâm, ngư nghiệp:
Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng
nông nghiệp, lâm nghiệp thời kỳ từ nay tới năm 2000 là 4,5%, giai đoạn 2001 -
2010 đạt trên 4%.
Phát triển ngành nông nghiệp để
hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung trên cơ sở chuyển đổi mùa vụ,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đầu tư thâm canh cao phù hợp với hệ
sinh thái và môi trường, phòng tránh thiên tai lụt bão; gắn nông nghiệp với
công nghiệp chế biến tạo ra thế phát triển bền vững. Đặc biệt chú trọng những
cây công nghiệp ngắn ngày: mía, lạc, thuốc lá... phù hợp với điều kiện khí hậu
thổ nhưỡng của vùng nhằm cung cấp nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu.
Phát triển chăn nuôi theo hướng
đa dạng hoá: nạc hoá đàn lợn, phát triển đàn bò sữa, bò thịt, phát triển gia cầm
phục vụ đời sống và công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu.
Phát triển nông nghiệp cần gắn
liền với xây dựng nông thôn mới.
Lâm nghiệp: Chú trọng công tác
quản lý bảo vệ, tái tạo và tu bổ rừng tự nhiên, thực hiện mục tiêu chiến lược
nhằm giữ gìn cảnh quan môi trường, duy trì và phát triển nguồn sinh thuỷ, chống
xói mòn. Kết hợp chặt chẽ giữa nông lâm nghiệp với thuỷ lợi. Đẩy mạnh trồng rừng
vùng đất trống, đồi núi trọc và tăng cường trồng cây phân tán, rừng phòng hộ và
cây trồng ven biển. Đặc biệt chú ý rừng đầu nguồn, khu du lịch sinh thái, rừng
quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Từng bước thực hiện giao đất, giao và khoán
rừng.
Ngư nghiệp: Kết hợp kinh tế biển
và ven bờ theo hướng kết hợp đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản, làm
muối; làm nông nghiệp và trồng rừng ven biển. Hình thành và phát triển các làng
cá vừa làm dịch vụ du lịch, vừa cung cấp thực phẩm tươi sống có chất lượng và
giá trị cao. Đầu tư hiện đại hoá phương tiện, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng
đánh bắt thuỷ hải sản, đặc biệt là đánh bắt hải sản xa bờ, khuyến khích tạo điều
kiện chế biến xuất khẩu.
Về phát triển công nghiệp:
Hình thành các ngành công nghiệp
mũi nhọn trên cơ sở phát triển những ngành được đầu tư tập trung, có lợi thế về
tài nguyên, nguồn lao động, thị trường để tăng trưởng với tốc độ cao, thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng. Ưu tiên đầu tư phát triển
những ngành sản xuất có hiệu quả và góp phần xuất khẩu, tạo ra lợi thế trong
quá trình hoà nhập với khu vực và quốc tế. Đầu tư cho các khu công nghiệp như:
Dung Quất, Điện Nam - Điện Ngọc, Hoà Khánh - Liên Chiểu, Phú Bài, An Đồn, Chân
Mây, Tịnh Phong. Chuẩn bị điều kiện để phát triển một số điểm công nghiệp khác
với các ngành chủ yếu là chế biến nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp thực phẩm,
công nghiệp đóng tàu và công nghiệp hàng tiêu dùng. Đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng
để thu hút vốn đầu tư.
Thực hiện hướng phát triển công
nghiệp chế biến quy mô nhỏ ở nông thôn thuộc các ngành: vật liệu xây dựng, thủ
công mỹ nghệ, gia công cho các khu công nghiệp lớn nhằm tạo ra sự đổi mới trong
nông thôn.
Phấn đấu nhịp độ tăng trưởng
công nghiệp giai đoạn từ nay tới năm 2000 đạt 18% - 20%, và giai đoạn 2001-2010
đạt 17%-18%.
4. Về phát triển thương mại và
các ngành dịch vụ:
Phát triển thương mại và các
ngành dịch vụ phải gắn chặt với quá trình phát triển chung của các ngành kinh tế
của toàn vùng nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra.
Xây dựng thành phố Huế, thành phố
Đà Nẵng thành đầu mối giao lưu xuất nhập khẩu. Phát triển các trạm trung chuyển,
hình thành một số siêu thị và trung tâm thương mại tại Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi
và đô thị mới.
Từ nay tới năm 2000 xây dựng
trung tâm thương mại và hội chợ quốc tế tại thành phố Đà Nẵng. Phát triển xuất
nhập khẩu, chuyển đổi cơ cấu các ngành thương mại, du lịch, dịch vụ tài chính,
ngân hàng, dịch vụ cảng.
Phát triển du lịch gắn kết với
việc bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, khu bảo tồn, bảo tàng. Kết hợp
du lịch với nuôi trồng thuỷ hải sản, trồng cây ven biển và rừng quốc gia. Chú
trọng phát triển chuỗi du lịch trọng điểm: Huế, Lăng Cô, Bạch Mã - Cảnh Dương,
Đà Nẵng, Hội An, Cổ Luỹ và các khu vực phụ cận. Gắn kết du lịch giữa các tỉnh,
thành phố nội vùng với các vùng khác trong nước. Nâng cao chất lượng và phát
triển đa dạng các hình thức du lịch, từng bước hình thành các tuyến du lịch khu
vực miền Trung. Về lâu dài nối liền với tuyến du kịch Chiềng Mai (Thái Lan) -
Luông Pha Băng (Lào) - Angkorvat (Cămpuchia).
Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật,
kết cấu hạ tầng, phát triển tài nguyên du lịch, phát huy truyền thống và giữ
gìn bản sắc dân tộc. Bằng nhiều hình thức và biện pháp nhằm thu hút đầu tư, liên
doanh, liên kết tạo sức mạnh tổng hợp, đưa du lịch trở thành một trong những
ngành kinh tế trọng điểm của vùng.
5. Về văn hoá, giáo dục y tế và
xã hội:
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục và đào tạo, cân đối quy mô ngành học, đa dạng hoá các
hình thức đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường cơ sở vật chất
cho hệ thống giáo dục phổ thông, phổ cập giáo dục tiểu học và xoá nạn mù chữ đạt
tiêu chuẩn quốc gia vào năm 2000; phổ cập phổ thông trung học vào năm 2010. Cải
tạo và nâng cấp các cơ sở y tế hiện có, củng cố và phát triển mạng lưới y tế
toàn vùng đủ điều kiện chữa bệnh cho đồng bào. Nâng cao hiệu quả công tác phòng
bệnh, thực hiện đông tây y kết hợp trong chữa bệnh; thanh toán cơ bản các loại
dịch bệnh, ký sinh trùng, sáu bệnh truyền nhiễm trẻ em.
Đầu tư phát triển văn hoá, truyền
thông, phát thanh, truyền hình, thể dục thể thao đạt trình độ hiện đại đáp ứng
yêu cầu của sản xuất và đời sống.
Xây dựng các cụm xã miền núi, từng
bước vươn lên xoá đói giảm nghèo.
Giải quyết hữu hiệu vấn đề nước
thải, chất thải rắn và khí thải để chống ô nhiễm, giữ gìn cảnh quan môi trường,
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Căn cứ vào Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Uỷ ban Nhân dân
các tỉnh trong vùng cần tổ chức thực hiện và vận dụng đồng bộ hệ thống các giải
pháp về cơ chế, chính sách nhằm huy động cao nhất tiềm năng và nguồn lực từng tỉnh,
của toàn vùng, trong nước và ngoài nước. Trên địa bàn từng tỉnh cần vận dụng
sáng tạo các biện pháp và các bước đi thích hợp nhằm cụ thể hoá phương hướng
phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của quy hoạch trong các kế hoạch dài hạn,
trung hạn, ngắn hạn, các chương trình và dự án cụ thể nhằm điều hành và quản lý
phát triển theo định hướng đã đề ra.
Về phát triển nguồn nhân lực, tạo
lập và phát triển thị trường, triển khai nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất và đời sống phải được các địa phương trong
vùng, các Bộ, ngành liên quan đề xuất với Chính phủ thông qua các chính sách và
giải pháp khả thi nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện đổi mới tổ chức, quản
lý và cải cách hành chính tạo môi trường thuận lợi, thu hút, khuyến khích đầu
tư trong và ngoài nước.
Đầu tư tập trung để đem lại hiệu
quả thiết thực; ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tạo động lực phát triển
cho một số ngành chủ lực mà vùng có thế mạnh: lọc hoá dầu, giao thông vận tải,
đầu mối trung chuyển hàng hoá, du lịch và dịch vụ.
Thực hiện chính sách khuyến
khích kinh tế cao đối với các khu vực kinh tế cửa khẩu nhằm tạo động lực cho
toàn vùng phát triển.
Căn cứ vào Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được phê duyệt,
các địa phương trong vùng phải soát xét lại Quy hoạch tổng thể các chương
trình, kế hoạch, các dự án phát triển kinh tế - xã hội để bố trí thứ tự ưu tiên
hợp lý thông qua các kế hoạch hàng năm và dự án thành phần.
Điều 2.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh,
thành phố vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi
thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung một cách chặt chẽ, xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm, các chương
trình và dự án đầu tư phát triển phù hợp với Quy hoạch.
Trong quá trình thực hiện Bộ Kế
hoạch và Đầu tư kết hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Uỷ ban Nhân dân các địa
phương tiến hành tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm điều chỉnh, bổ sung kịp
thời.
Các Bộ, ngành ở Trung ương có
trách nhiệm phối hợp giúp đỡ các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung trong quá trình rà soát, tổ chức thực hiện các chương trình và dự án
đã đề ra, đảm bảo sự thống nhất giữa Quy hoạch từng tỉnh, thành phố với Quy hoạch
vùng và cả nước.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân
các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và các Bộ trưởng,
thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ có liên
quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.