HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 11 năm 1959
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC TIẾN HÀNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP KẾT HỢP HOÀN
THÀNH CẢI CÁCH DÂN CHỦ MIỀN NÚI
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa họp khóa thứ X đã nhận định về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp và nhất
trí tán thành những điều quy định cơ bản trong báo cáo của Chính phủ về mục
đích yêu cầu, đường lối giai cấp, phương châm, nguyên tắc, những chính sách cụ
thể và phương pháp vận động hợp tác hóa nông nghiệp ở toàn miền Bắc, bao gồm cả
đồng bằng và miền núi.
Song vì miền núi có những đặc
điểm riêng, cho nên Hội đồng Chính phủ quy định những điểm cụ thể dưới đây để
tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền
núi.
I. ĐẶC ĐIỂM
CỦA TÌNH HÌNH MIỀN NÚI THUỘC MIỀN BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY.
Miền núi chiếm hai phần ba diện
tích miền Bắc nước ta, gồm trên 30 dân tộc với khoảng 2.300.000 dân (kể cả
580.000 người Kinh ở xen kẻ có trên 3.000 cây số biên giới, chiếm một vị trí rất
quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng. Riêng về kinh tế, khả năng miền
núi nước ta rất dồi dào, không những có điều kiện để phát triển cây lương thực,
nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả, nghề rừng, chăn nuôi,v.v… mà còn có điều
kiện để dần dần xây dựng những trung tâm công nghiệp như khai khoáng, điện lực,
luyện kim, cơ khí, chế biến nông sản và các lâm sản, v.v…).
Trong cách mạng tháng Tám và
kháng chiến cũng như trong mấy năm xây dựng hòa bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chính phủ đứng đầu là Hồ Chủ tịch, miền núi thuộc miền Bắc nước ta đã có những
tiến bộ lớn về mọi mặt chính trị, kinh tế và xã hội. Đồng bào miền núi có truyền
thống cách mạng lâu đời. Những căn cứ địa cách mạng cũ phần lớn đều ở miền núi.
Nhân dân miền núi nhờ có cách mạng mà được tự do, cơm áo, cho nên rất tin tưởng
ở Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch. Qua cách mạng tháng Tám và qua nhiều cuộc vận
động cải cách dân chủ từ Cách mạng tháng Tám đến nay, vấn đề ruộng đất và vấn đề
xây dựng chính quyền nhân dân căn bản đã được giải quyết; những hình thức bóc lột
tàn bạo và những đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp phong kiến căn bản đã bị xóa bỏ.
Các chế độ thổ ty, lang đạo, phia tạo căn bản đã tan rã. Trong hơn 200 xã miền
núi đã cải cách ruộng đất, ta đã đánh đổ địa chủ, thực hiện được khẩu hiệu người
cày có ruộng, nông dân đã hoàn toàn làm chủ nông thôn. Ngoài ra, 688 xã khác đã
qua vận động giảm tô. Hơn 1.000 xã còn lại, tuy chưa qua phát động quần chúng
giảm tô và cải cách ruộng đất, nhưng đều đã qua những cuộc vận động khác có
tính chất dân chủ dưới mức độ khác nhau. Cho nên ở miền núi nói chung ruộng đất
hầu hết đã thuộc về nông dân; chính quyền căn bản đã ở trong tay nông dân. Nhiệm
vụ cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân ở miền núi thuộc miền Bắc nước ta đã
căn bản hoàn thành. Trên cơ sở đó, nông dân các dân tộc miền núi bắt đầu được tổ
chức lại để lao động tập thể. Đến cuối tháng sáu, riêng miền núi đã có 44.070 tổ
đổi công bao gồm 74,4% hộ nông dân lao động và 2.232 hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp bao gồm 14,2% nông hộ. Phong trào hợp tác hóa phát triển đã có tác dụng
thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, góp phần tăng cường đoàn
kết dân tộc, làm cho nông dân miền núi bước đầu thấy rõ tinh hơn hẳn của lối
làm ăn tập thể.
Đó là mặt chủ yếu của tình hình
miền núi hiện nay.
Nhưng mặt khác, trình độ phát
triển của các dân tộc miền núi nói chung là thấp và không đều nhau, có vùng còn
tàn tích của chế độ phong kiến và tiền phong kiến nữa; có vùng giai cấp đã phân
hóa giống như miền xuôi; có vùng giai cấp chưa phân hóa hoặc phân hóa chưa rõ rệt
và những vùng đó lại nằm xen kẽ ở cả vùng cao và vùng thấp.
Ở một số ít xã, có địa chủ vẫn
có chiếm hữu nhiều ruộng đất và bóc lột theo lối phong kiến. Có nơi thổ ty,
lang đạo vẫn còn có uy thế trong một phạm vi nhất định, hoặc còn nằm trong các
cơ quan chính quyền ở xã và cản trở việc thi hành các chính sách của Đảng và của
Nhà nước. Bọn thổ phỉ, biệt kích, gián điệp cũng đang hoạt động ở một số ít
vùng, khống chế uy hiếp quần chúng nông dân.
Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp
ở miền núi phát triển chưa đều, một số chính sách cụ thể thích hợp với miền núi
chưa được quy định, công tác tư tưởng trong hợp tác xã chưa được chú ý công tác
quản lý hợp tác xã còn rất lúng túng.
Nhiều nơi chi bộ Đảng, Ủy ban
Hành chính và các đoàn thể nhân dân chưa được vững mạnh. Có những xã chưa có
chi bộ Đảng. Lực lượng cán bộ các dân tộc nói chung thiếu và yếu. Trình độ
chính trị và ý thức giai cấp của quần chúng chưa được nâng cao, trình độ văn
hóa nhiều nơi còn rất thấp.
Về lãnh đạo, chúng ta chưa coi
trọng đúng mức công tác miền núi; các cấp đã có nhiều cố gắng, nhưng nói chung
nắm tình hình không vững, giải quyết công việc còn chậm chạp và thiếu cụ thể.
Các ngành của Nhà nước, các đoàn thể nhân dân chưa chú trọng điều tra, nghiên cứu
tình hình miền núi để giúp Trung ương đề ra những chủ trương và chính sách sát
hợp và kịp thời.
Đó là nhược điểm của tình hình.
Nhưng mặc dù còn có những nhược
điểm đó, tình hình miền núi căn bản là tốt. Phong trào đổi công tác hợp tác, cải
tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất đã kết hợp với nhau và đều có tiến bộ. Cuộc
cải cách dân chủ đã có một quá trình tương đối dài, những vấn đề còn lại phải
giải quyết không nhiều lắm. Những nơi đã qua phát động quần chúng cải cách ruộng
đất và giảm tô mà ít sai lầm, hoặc đã qua phát động quần chúng tiễu phỉ, trừ
gian, phục vụ tiền tuyến,v.v… thì nói chung có khá hơn những nơi khác, vùng thấp
khá hơn vùng cao, miền nội địa khá hơn miền biên giới. Nơi nào cuộc vận động cải
cách dân chủ làm sâu sắc và triệt để, tư tưởng của quần chúng được phát động kỹ
thì ở đó vấn đề đoàn kết dân tộc, củng cố trật tự, an ninh và phong trào đổi
công hợp tác phát triển sản xuất tiến hành thuận lợi. Trái lại, nơi nào địa chủ,
phong kiến chưa thật sự bị đánh đổ, bọn phá hoại hiện hành chưa bị trấn áp và
nông dân lao động chưa xây dựng được ưu thế tuyệt đối của mình ở nông thôn, thì
chẳng những phong trào đổi công hợp tác chưa thật tốt mà các công tác khác cũng
kém kết qủa.
Căn cứ vào tình hình miền núi
như trên, Hội đồng Chính phủ nhận định rằng nhiệm vụ của miền núi hiện nay là
phải vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất và kết hợp hoàn
thành cải cách dân chủ, tức là trong khi tiến hành cuộc vận động hợp tác hóa
nông nghiệp, phát triển sản xuất, phải chú ý giải quyết những vấn đề còn lại của
cải cách dân chủ; ngược lại, giải quyết những vấn đề đó cũng chính là để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp và đẩy mạnh sản xuất ở
miền núi.
Dưới đây là những quy định cụ thể
cho cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở
miền núi thuộc miền Bắc nước ta hiện nay.
II. NHỮNG
ĐIỀU QUY ĐỊNH CỤ THỂ ĐỂ TIẾN HÀNH HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP Ở MIỀN NÚI
1. Đường lối
giai cấp của Đảng và Chính phủ trong cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp kết
hợp với hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi.
Đường lối cơ bản của Đảng và
Chính phủ ở nông thôn toàn miền Bắc hiện nay là dựa hẳn vào bần nông và trung
nông lớp dưới (nơi nào còn cố nông thì dựa hẳn vào bần cố nông và trung nông lớp
dưới), đoàn kết chặt chẽ với trung nông. Song vì tình hình miền núi có nhiều chỗ
khác miền xuôi và ngay ở miền núi tình hình kinh tế và xã hội giữa các vùng
cũng phát triển không đều, cho nên cần đề ra đường lối cụ thể cho hai loại vùng
khác nhau ở miền núi như dưới đây:
A. ĐỐI VỚI NHỮNG VÙNG KINH TẾ
ĐÃ PHÁT TRIỂN, GIAI CẤP ĐÃ PHÂN HÓA RÕ RỆT THÌ ĐƯỜNG LỐI GIAI CẤP CỦA ĐẢNG VÀ
CHÍNH PHỦ TA LÀ:
Dựa hẳn vào bần cố nông và trung
nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, tranh thủ những người thuộc tầng
lớp trên có liên hệ với quần chúng, hạn chế đi đến xóa bỏ sự bóc lột kinh tế của
phú nông, cải tạo tư tưởng phú nông, xóa bỏ thế lực kinh tế và chính trị còn lại
của giai cấp địa chủ phong kiến, ngăn bừa địa chủ ngóc đầu dậy, mở đường cho địa
chủ lao động cải tạo thành con người mới; trấn áp bọn phản động phá hoại hiện
hành, kiên quyết đưa nông dân miền núi đi vào con đường hợp tác hóa nông nghiệp
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
B. ĐỐI VỚI NHỮNG VÙNG KINH TẾ
PHÁT TRIỂN CHẬM, GIAI CẤP CHƯA PHÂN HÓA RÕ, THÌ ĐƯỜNG LỐI GIAI CẤP CỦA ĐẢNG VÀ
CHÍNH PHỦ TA NHƯ SAU:
Dựa vào nông dân lao động,
nhất là nông dân lao động nghèo khổ, tranh thủ những người thuộc tầng lớp trên
có liên hệ với quần chúng, xóa bỏ các hình thức bóc lột phong kiến còn lại, trấn
áp bọn phản động phá hoại hiện hành, kiên quyết đưa nông dân miền núi đi vào
con đường hợp tác hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy là riêng ở vùng giai cấp
chưa phân hóa rõ, chỉ đặt vấn đề dựa vào nông dân lao động, vì ở đây trong nông
dân lao động có một số người đời sống và tư liệu sản xuất có khá hơn, nhưng
không chênh lệch nhiều lắm so với những nông dân lao động khác. Tuy vậy, trong
khi tiến hành công tác ở những vùng này, trước hết phải chú ý dựa vào những
nông dân lao động nghèo khổ.
Tranh thủ những người thuộc tầng
lớp trên có liên hệ với quần chúng là tranh thủ những người tuy là địa chủ hoặc
phú nông (vùng giai cấp đã phân hóa rõ) hoặc có bóc lột (vùng giai cấp chưa
phân hóa rõ), nhưng vì quan hệ dân tộc hoặc tôn giáo, họ có ảnh hưởng nhất định
trong quần chúng ở một vùng hoặc một xã, từ khi địa phương thành lập chính quyền
nhân dân đến nay, họ không phạm tội ác lớn đối với nhân dân, có liên hệ với quần
chúng và quần chúng không oán ghét họ, trái lại còn tín nhiệm họ. Nếu những người
ấy tán thánh và ủng hộ thì việc tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp hoàn
thành cải cách dân chủ ở miền núi sẽ được thuận lợi. Tranh thủ tầng lớp trên có
liên hệ với quần chúng cụ thể là đoàn kết với họ, đồng thời giáo dục, cải tạo họ,
phê bình những thiếu sót của họ. Muốn tranh thủ tầng lớp trên, phải đi sâu vào
quần chúng, phát động tư tưởng quần chúng nông dân lao động.
Đối với phú nông ở miền núi, việc
hạn chế đi đến xóa bỏ sự bóc lột kinh tế của họ và cải tạo tư tưởng cho họ phải
làm dần dần. Việc hạn chế đi đến xóa bỏ sự bóc lột đó phải tiến hành bằng cách
ra sức phát triển ba hình thức hợp tác xã; hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, hợp
tác xã mua bán và hợp tác xã vay mượn, chứ không phải bằng cách ra lệnh cấm bóc
lột. Cải tạo tư tưởng phú nông bằng cách tổ chức cho họ học tập chính sách của
Đảng và Chính phủ, làm cho họ nhận rõ bóc lột là xấu để họ bỏ dần, đồng thời họ
không chống đối với hợp tác hóa nông nghiệp và hoàn thành cải cách dân chủ.
Đối với địa chủ, thì theo như
chính sách chung, kiên quyết xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, xóa
bộ những tàn tích của chế độ thổ ty, lang đạo, phìa tạo; nhưng xóa bỏ một cách
ôn hòa và chiếu cố đúng mức những người thuộc giai cấp địa chủ nhưng là nhân sĩ
dân chủ, địa chủ kháng chiến, cán bộ đảng viên, bộ đội, nhân viên và gia đình họ.
Về việc trấn áp bọn phản động
phá hoại hiện hành, tinh thần chung là phải kiên quyết, nhưng phải rất thận trọng
và phải tiến hành có trọng điểm. Cấp trên phải nắm lãnh đạo chặt chẽ, cấp dưới phải
xin chỉ thị cấp trên, không được làm ẩu, làm bừa.
Trên đây là giải thích một số điểm
về đường lối giai cấp ở miền núi. Còn những vấn đề như dựa hẳn vào bần nông (hoặc
bần cố nông) và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông thì nội
dung giống như đường lối giai cấp trong hợp tác hóa nông nghiệp miền xuôi.
2. Phương
châm tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền
núi.
Phương châm chung của cuộc vận động
hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc là: tích cực lãnh đạo, vững bước tiến lên,
quy hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng; làm tốt, vững và gọn.
Đối với miền núi phương châm nay
vẫn đúng. Nó vẫn phải được thấu suốt trong cả cuộc vận động hợp tác hóa nông
nghiệp, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ. Nhưng để sát với đặc điểm của miền
núi có nhiều dân tộc và có tính chất phức tạp, khi áp dụng phương châm chung phải
nắm vững thêm những điểm riêng cho miền núi, như sau: bảo đảm đoàn kết dân tộc,
kiên nhẫn, thận trọng, tùy từng vùng khác nhau mà cách làm có khác nhau, tránh
máy móc, rập khuôn, xuất phát từ những đặc điểm của miền núi và trình độ thực tại
của các dân tộc.
Nếu cuộc vận động hợp tác hóa
nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi không theo đúng những
điều quy định về phương châm chung và phương châm cụ thể trên đây thì nhất định
công tác không thể có kết quả tốt được.
3. Bước đi, tốc
độ và hình thức hợp tác hóa nông nghiệp ở miền núi.
Căn cứ vào những điều quy định
chung về hợp tác hóa nông nghiệp, nay cần định rõ thêm một số điểm thích hợp với
tình hình kinh tế, xã hội và tập quán, sinh hoạt của đồng bào miền núi như dưới
đây:
Về bước đi của cuộc vận động hợp
tác hóa nông nghiệp ở miền núi, nói chung cũng phải theo ba bước, từ tổ đổi
công lên hợp tác xã bậc thấp, rồi lên hợp tác xã bậc cao, và trong thời gian đầu
muốn xây dựng hợp tác sản xuất nông nghiệp được tốt, căn bản phải có tổ đổi
công thường xuyên có bình công chấm điểm làm nòng cốt. Nhưng do đặc điểm của miền
núi, các dân tộc thiểu số sẵn có tinh thần đoàn kết giúp lẫn nhau, tính tư hữu
nhẹ hơn ở miền xuôi; nhiều nơi có nhiều ruộng đất, trâu bò, cho nên trong điều
kiện có tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm tốt và nếu quần chúng tự
nguyện thì lúc đầu có thể xây dựng ngay hợp tác xã bậc cao. Những nơi đồng bào
còn du canh, du cư, phần lớn ruộng đất là của công, căn bản không có tư hữu về
ruộng đất, thì cũng có thể đi từ tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm
lên thẳng hợp tác xã bậc cao, không cần qua bậc thấp. Nhưng tổ chức hợp tác xã
bậc cao hay bậc thấp, vấn đề cơ bản là phải được quần chúng thật sự tự nguyện
và bảo đảm lãnh đạo tốt, không gò ép quần chúng xây dựng hợp tác xã bậc cao khi
quần chúng chưa thông và điều kiện chưa cho phép.
Hiện nay những nơi phong trào đổi
công còn yếu phải ra sức củng cố và phát triển tổ đổi công và nơi nào cũng phải
coi trọng việc phát triển tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm, chuẩn
bị điều kiện để xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Những nơi đã có hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp thì phải củng cố tốt những hợp tác xã đó bằng cách
tăng cường giáo dục chính trị và tư tưởng cho xã viên, quản lý tổ hợp tác xã và
chú trọng cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất nhiều mặt, đồng thời chuẩn bị
cán bộ, chuẩn bị cơ sở tổ đổi công nhất là tổ đổi công trường thường xuyên có
bình công chấm điểm, để dần dần phát triển thêm hợp tác xã. Những nơi chưa có hợp
tác xã thì từ nay đến cuối năm phải cố gắng phát triển những tổ đổi công thường
xuyên có bình công chấm điểm để tạo điều kiện xây dựng hợp tác xã trong năm tới.
Mỗi tỉnh, huyện phải xây dựng và
chỉ đạo hợp tác xã trọng điểm cho tốt để rút kinh nghiệm và làm gương cho quần
chúng nông dân. Lúc đầu xã nào muốn tổ chức hợp tác xã bậc cao phải được cấp tỉnh
hoặc cấp khu (như ở Tây Bắc) xét và đồng ý; khi đã có kinh nghiệm rồi thì có thể
giao cho cấp huyện xét. Tỉnh nào vì tình hình đặc biệt, chủ trương tổ chức nhiều
hợp tác xã bậc cao ngay từ đầu thì phải báo cáo Trung ương xét và phê chuẩn.
Về tốc độ phát triển của phong
trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền núi, nói chung có thể chậm hơn phong trào hợp
tác hóa nông nghiệp ở miền xuôi, vì miền núi có xã đang còn lại những vấn đề của
cải cách dân chủ chưa được giải quyết, cơ sở tổ chức của Đảng và của chính quyền
ở một số xã đang còn yếu,v.v… Cho nên ở những xã đó phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp có thể tiến chậm hơn. Các cấp, nhất là cấp tỉnh, phải thấy tình hình đó
để có kế hoạch giúp đỡ cụ thể cho những vùng yếu và xã yếu.
Về hình thức tổ chức hợp tác xã ở
miền núi, cũng lấy hợp tác xã sản xuất nông nghiệp làm chính, trừ nơi nào nông
nghiệp và lâm nghiệp đều là nguồn lợi lớn thì có thể tổ chức hợp tác xã nông,
lâm nghiệp; nơi nào có điều kiện chăn nuôi lớn thì tổ chức hợp tác xã chăn
nuôi. Trong các hợp tác xã nông nghiệp, nông lâm nghiệp hoặc chăn nuôi đó, phải
biết lợi dụng điều kiện thiên nhiên thuận lợi ở miền núi và khả năng về mọi mặt
quản lý kỹ thuật, lãnh đạo,v.v… và tổ chức kinh doanh nhiều mặt, cả về nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, vận tải, nghề phụ,v.v….
Về quy mô tổ chức hợp tác xã ở
miền núi, cũng đi từ nhỏ đến lớn. Lúc đầu nói chung mỗi hợp tác xã nên tổ chức
vào khoảng từ 15 đến 30 hộ, những nơi dân cư thưa thớt có thể tổ chức những hợp
tác xã nhỏ trên dưới 10 hộ; những nơi dân cư đông đúc có thể tổ chức những hợp
tác xã to trên dưới 40 hộ. Về sau, tùy theo khả năng quản lý của cán bộ và điều
kiện thuận tiện cho sản xuất mà dần dần tổ chức những hợp tác xã lớn bao gồm phạm
vi một xã hoặc bao gồm phạm vi một vài bản ở những xã quá rộng.
4. Một số
chính sách cụ thể về hợp tác hóa nông nghiệp ở miền núi.
Chính sách hợp tác hóa nông nghiệp
ở miền núi về căn bản cũng như chính sách chung. Ở đây chỉ bổ sung một số điểm
cần thiết như sau:
a) Đối với ruộng đất, trâu
bò,v.v… đưa vào hợp tác xã.
Đất để lại cho các gia đình xã
viên trồng rau, cây ăn qủa, trồng chàm,v.v… không nhất thiết theo mức đã quy định,
nghĩa là để cho mỗi nhân khẩu trong gia đình xã viên không qúa 5% diện tích
bình quân của mỗi quân nhân trong xã, mà có thể để nhiều hơn nếu địa phương có
nhiều đất và quần chúng yêu cầu, nhưng không nên để lại nhiều quá vì như thế nhất
định sẽ ảnh hưởng đến việc quản lý lao động chung. Đối với những nơi vì phong tục
tập quán, đồng bào miền núi yêu cầu để lại một số ruộng để tự tay họ trồng cấy
lấy lúa gạo dùng vào việc thờ cúng thì cũng nên chiếu cố, nhưng cũng cần phải
theo tinh thần nói trên đây.
Đối với các rừng hoặc đồi trồng
cây ăn quả, cây công nghiệp lưu niên, đồi cọ, đồi chè, nương gai, nương móc, ao
cá…. ngoài những điều đã quy định chung, ở miền núi khi hợp tác xã lên bậc cao,
đối với những thứ thu lợi nhiều nhưng không phải tốn công chăm sóc, không ảnh
hưởng đến quản lý lao động chung, thì lúc đầu nếu xã viên chưa muốn công hữu
hóa ngay cũng có thể để cho họ sử dụng, sau sẽ tùy theo yêu cầu của quần chúng
và khả năng quản lý mà dần dần đưa vào hợp tác xã.
Đối với trâu bò đàn chăn nuôi
thì tùy theo nguyện vọng của xã viên và khả năng chăn nuôi của hợp tác xã mà để
các xã viên tự chăn nuôi lấy hoặc đưa vào hợp tác xã rồi hợp tác xã tổ chức
chăn nuôi và chia hoa lợi cho người chủ, hoặc hợp tác xã mua những trâu bò đó
làm của tập thể và trả dần cho xã viên chủ trâu bò trong khoảng từ 3 đến 5 năm.
Để chiếu cố sinh hoạt riêng của
xã viên, khi vận động đưa trâu bò vào hợp tác xã có thể để lại cho những gia
đình có nhiều trâu bò một vài con làm của riêng. Về ngựa, những con nào dùng để
phục vụ sinh hoạt gia đình (như thồ củi, nước,v.v…) thì không vận động đưa vào
hợp tác xã.
Những nơi có voi, nếu quần chúng
đồng ý đưa vào hợp tác xã thì phải chú ý sắp xếp để chăn nuôi và sử dụng cho tốt,
và định giá đúng mức trả dần cho xã viên trong thời hạn không qúa 5 năm.
b) Đối với những người thuộc
tầng lớp trên và những người làm nghề tôn giáo ở miền núi.
Đối với địa chủ, phú nông, nếu
hiện nay họ còn tiếp tục bóc lột và chưa được thay đổi thành phần thì nhất định
không được kết nạp vào tổ đổi công và hợp tác xã. Những người đã thôi bóc lột
và đã được thay đổi thành phần, lúc đầu nói chung cũng chưa nên kết nạp; đến
khi hợp tác xã đã phát triển rộng và củng cố thì tùy theo thái độ từng người mà
kết nạp làm xã viên dự bị.
Đối với những địa chủ, phú nông
đã gia nhập tổ đổi công hay hợp tác xã, ta phải xét từng trường hợp xem người
nào đã thôi bóc lột và đã đủ tiêu chuẩn được thay đổi thành phần thì tuyên bố
cho họ thay đổi thành phần thì tuyên bố cho họ thay đổi thành phần và để họ ở lại
tổ đổi công và hợp tác xã, làm tổ viên chính thức hoặc làm xã viên dự bị. Còn đối
với những người chưa bỏ bóc lột, phải giải thích cho họ, nếu họ chịu bỏ bóc lột
và xét ra từ khi vào tổ đổi công hay hợp tác xã họ vẫn phục tùng kỷ luật của tổ
chức và không làm điều gì có hại cho tập thể thì ta vẫn để họ trong tổ đổi công
hay hợp tác xã và coi như một tổ viên hoặc xã viên dự bị. Trái lại, nếu họ
không chịu bỏ bóc lột hoặc từ ngày vào tổ đổi công và hợp tác xã, họ đã từng vi
phạm kỷ luật của tổ chức và làm hại cho lợi ích tập thể thì phải kiên quyết
khai trừ họ ra khỏi tổ đổi công hay hợp tác xã. Sở dĩ phải giải quyết như vậy
là vì tổ đội công hay hợp tác xã đều là tổ chức chức kinh tế của nông dân lao động
cốt để thực hiện lao động tập thể nhằm phát triển sản xuất và tự cải thiện đời
sống cho mình. Nếu tổ chức lẫn lộn những phần tử bóc lột vào thì nhất định nông
dân lao động tổ viên hoặc xã viên sẽ lợi dụng và sẽ không khuyến khích họ hăng
hái lao động và cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất. Kinh nghiệm đã chỉ
cho ta thấy rằng: những tổ đổi công và những hợp tác xã nào có phần tử bóc lột ở
trong và nhất là nếu để họ nắm được địa vị lãnh đạo thì nội bộ không đoàn kết
và lợi ích chung thường bị xâm phạm. Một số tổ đổi công miền núi không tiến lên
hợp tác xã được chính là vì đã bị những phần tử bóc lột trong tổ chức kìm hãm.
Một số khác bị tan rã hoặc lủng củng cũng vì những hành vi tự tư tự lợi của những
phần tử bóc lột làm thiệt hại đến lợi ích chung.
Khi nông dân lao động ở trong xã
căn bản đã vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp rồi, cũng nên cho phú nông, địa
chủ trong xã được vào lao động trong hợp tác xã nếu họ yêu cầu và Đại hội xã
viên đồng ý, và qua một thời gian nếu họ thật sự bỏ bóc lột được thay đổi thành
phần và có thái độ tốt thì ta cũng có thể coi họ như xã viên dự bị và sau nếu họ
tiến bộ thì họ cũng sẽ trở thành xã viên chính thức.
Ở những vùng giai cấp chứa phân
hóa rõ, nếu quần chúng tán thành cũng có kết nạp vào tổ đổi công và hợp tác xã
những người thuộc tầng lớp trên thực sự lao động, đã thôi bóc lột và tự giác bỏ
những đặc quyền, đặc lợi còn lại, nhưng chỉ có thể coi họ như xã viên dự bị và
trong những năm đầu của cuộc vận đồng hợp tác xã không nên bầu họ vào cơ quan
lãnh đạo.
Đối với những người làm nghề tôn
giáo như mo, trang, thầy cúng, cô đồng, cô then,v.v… nếu họ là nông dân lao động
thì đối xử như nông dân lao động khác và tùy theo yêu cầu của họ mà kết nạp vào
tổ đổi công, hợp tác xã, đồng thời giáo dục họ giảm bớt những tục lệ phiền phức
và lãng phí trong việc cúng lễ, tuyệt đối không được cưỡng bức, mệnh lệnh. Mo,
trang, thầy cúng, cô đồng, cô then là địa chủ hoặc phú nông thì nói chung cũng
đối xử theo những điều đã quy định đối với những tầng lớp ấy. Nếu họ thuộc diện
tranh thủ và có thái độ tốt thì khi họ chưa được thay đổi thành phần ta cũng có
thể cho họ tham gia lao động trong hợp tác xã sớm hơn những người khác cùng
giai cấp hoặc tầng lớp với họ, và sau một thời gian lao động, ta có thể kết nạp
họ làm xã viên dự bị.
c) Chính sách tổ chức và vấn
đề bồi dưỡng cán bộ người thiểu số.
Về mặt tổ chức, những nơi nào
trong hợp tác xã có nhiều thành phần dân tộc thì trong Ban Quản trị, Ban Kiểm
soát cần có đại biểu của các dân tộc, làm cho các dân tộc đoàn kết, học hỏi,
tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, xóa bỏ dần những thành kiến dân tộc
do chế độ cũ để lại. Nếu số ủy viên trong Ban quản trị và Ban Kiểm soát có hạn,
không thể bao gồm đủ đại biểu của các dân tộc thì trước khi Ban Quản trị và Ban
Kiểm soát quyết định một vấn đề quan trọng có liên quan đến một dân tộc ít người
không có đại biểu trong Ban Quản trị và Ban Kiểm soát, cũng cần bàn bạc trước với
những xã viên người dân tộc ấy.
Tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp
ở miền núi phải chú ý rất nhiều đến việc bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số về
chính trị, văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ, nhất là cần chú ý tổ chức việc học
văn hóa cho cán bộ lãnh đạo của xã và của hợp tác xã, tạo điều kiện để tổ chức
cho họ học tập về nghiệp vụ và kỹ thuật. Đây là vấn đề rất cấp bách; các tỉnh,
huyện miền núi phải có kế hoạch giải quyết cụ thể. Mặt khác việc làm sổ sách,
cách sắp xếp tổ chức,v.v… trong hợp tác xã phải giản đơn, dễ làm, hợp với trình
độ của cán bộ và đồng bào miền núi.
III. NỘI
DUNG VÀ CHÍNH SÁCH HOÀN THÀNH CẢI CÁCH DÂN CHỦ Ở MIỀN NÚI.
Như trên đã nhận định, nhiệm vụ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền núi căn bản đã hoàn thành. Những vấn
đề còn lại của cải cách dân chủ ở từng vùng, từng xã thuộc miền núi mức độ rất
khác nhau, cho nên phải tùy từng vùng, từng xã, vấn đề còn lại nhiều hay ít mà
định yêu cầu và kế hoạch kết hợp giải quyết trong phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp.
Nói chung, giải quyết những vấn
đề còn lại của cải cách dân chủ ở miền núi nên nhẹ nhành, đơn giản, nhưng chặt
chẽ và sâu sắc, nhằm đạt được mục đích dưới đây:
Phân rõ ranh giới giữa nông dân
với địa chủ, giữa lao động với bóc lột, phân rõ ranh giới giữa ta, bạn và địch;
xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất và những đặc
quyền, đặc lợi của phong kiến còn sót lại; trấn áp bọn phản động phá hoại hiện
hành, giữ vững trật tự an ninh; tăng cường đoàn kết dân tộc; tránh gây ra không
khí căng thẳng, làm cho quần chúng hoang mang và địch lợi dụng; có dự kiến và đề
phòng trước mọi việc đột xuất có thể xảy ra, kiện toàn các tổ chức Đảng, chính,
quân, dân ở xã.
Yêu cầu cụ thể là: về kinh tế chủ
yếu là phải thanh toán nốt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất; xác định quyền
sở hữu của nông dân lao động về ruộng đất của địa chủ đã chia cho nông dân. (Đối
với đồng bào rẻo cao hiện chưa định canh, định cư thì cần giúp đỡ cụ thể để họ
tiến dần tới định canh, định cư). Về chính trị chủ yếu là làm cho nông dân lao
động thật sự và hoàn toàn làm chủ nông thôn và trấn áp bọn phá hoại hiện hành.
Còn các vấn đề khác thì lấy giáo dục tư tưởng làm chính và thông qua phong trào
hợp tác hóa mà giải quyết dần.
1. Vạch
thành phần giai cấp.
Tiêu chuẩn phân định thành phần
giai cấp ở miền núi cũng phải dựa theo bản điều lệ phân định thành phần đã ban
hành. Nếu có điểm nào cần bổ sung thì sẽ nghiên cứu và quy định sau.
Đối với nông dân lao động, trong
tất cả các vùng, dù trước đây đã xét định thành phần hay chưa, nay đều không đặt
vấn đề vạch hoặc vạch lại thành phần. Khi cần thiết phải xét để tổ chức người
vào tổ đổi công, hợp tác xã, hoặc lựa chọn người đưa vào cơ quan lãnh đạo hợp
tác xã,v.v… thì chi ủy hoặc cán bộ phụ trách ở xã (nơi chưa có chi bộ) hoặc cán
bộ địa phương cùng với cán bộ ở trên xuống giúp địa phương xây dựng hợp tác xã
căn cứ vào đường lối giai cấp và tiêu chuẩn phân định thành phần đã có mà xét cụ
thể từng trường hợp giải quyết.
Đối với thành phần bóc lột thì
chia làm mấy loại như sau:
a) Ở những xã giai cấp chưa phân
hóa rõ, không đặt vấn đề vạch thành phần những người thuộc tầng lớp trên, mà chỉ
nhận xét trong lãnh đạo.
b) Ở những xã, giai cấp chưa
phân hóa rõ rệt, việc xét thành phần địa chủ, phú nông cũng cần có sự phân biệt
thích đáng:
- Xã nào đã cải cách ruộng đất
thì không vạch lại thành phần, song phải xét những hộ thực tế đã thay đổi thành
phần từ sau cải cách ruộng đất để trong việc kết nạp vào hợp tác xã hoặc bầu
Ban Quản trị hợp tác xã khỏi phạm sai lầm.
- Xã đã phát động quần chúng giảm
tô, nói chung cũng không vạch lại thành phần. Nếu ở đó có người nào vẫn bị quy
sai là địa chủ, phú nông mà chưa được sửa trong khi sửa sai thì bàn bạc với quần
chúng sửa lại cho họ. Đối với địa chủ lọt lưới thì chỉ trong trường hợp cá biệt
họ còn nhiều ruộng đất trâu bò và thái độ độ không tốt, quần chúng nông dân
kiên quyết đòi quy định lại, ta mới vạch họ là địa chủ.
- Xã nào chưa cải cải ruộng đất
và giảm tô nhưng qua các cuộc vận động dân chủ khác đã xét định thành phần địa
chủ, phú nông thì nay Ủy ban hành chính xã cần báo cáo rõ với quần chúng nông
dân sự nhận định trước để cho quần chúng có ý kiến. Nếu có trường hợp nào trước
vạch sai thì nay phải vạch lại.
- Xã nào chưa phân định thành phần,
nay phải tiến hành như sau:
Phú nông và những địa chủ kháng
chiến, địa chủ thường thì cho nhận thành phần trước Ủy ban Hành chính xã và một
số đại biểu nông dân trong xã, rồi Ủy ban Hành chính xã tuyên bố với quần
chúng. Nếu có người không chịu nhận thành phần thì mới đưa ra vạch trước quần
chúng (diện quần chúng tham gia rộng hẹp tùy theo yêu cầu của từng vụ).
Địa chủ trước có tội ác lớn, đã
chịu lao động cải tạo, nhưng quần chúng vẫn oán ghét, hoặc địa chủ trước không
có tội ác lớn nhưng gần đây có những hàng động chống đối lại chính sách thì phải
kiểm thảo và nhận thành phần trước hội nghị đại biểu nông dân lao động toàn xã,
toàn bản hoặc toàn thôn, tùy theo ảnh hưởng của địa chủ đó rộng hay hẹp mà định
(trường hợp cá biệt mới đưa ra hội nghị đại biểu nông dân lao động toàn xã).
Đối với địa chủ có tội ác lớn
chưa chịu cải tạo hoặc phá hoại hiện hành, phải phát động tư tưởng quần chúng vạch
tội ác, vạch thành phần và bắt nhận thành phần trước quần chúng (diện quần
chúng tham dự rộng hẹp tùy theo yêu cầu của từng vụ).
Đối với những tên trước đây là địa
chủ, từ khi có luật cải cách ruộng đất đi làm mo, trang, làm thầy cúng thì tùy
theo chúng thuộc loại địa chủ nào kể trên đây mà đối xử. Nếu chúng là phần tử
phản động phá hoại hiện hành và quần chúng nông dân yêu cầu thì cấm không cho
làm mo, trang, thầy cúng nữa.
Cơ quan xét duyệt thành phần địa
chủ, phú nông là Ủy ban Hành chính huyện. Đối với những gia đình cách mạng, gia
đình cán bộ, quân nhân là địa chủ, đối với những người là nhân sĩ dân chủ, thân
sĩ yêu nước thuộc tầng lớp trên (có liên hệ với quần chúng) đối với những địa
chủ có tội ác lớn chưa chịu cải tạo hoặc phá hoại hiện hành thì Ủy ban Hành
chính huyện đề nghị lên Ủy ban Hành chính tỉnh hoặc Ủy ban hành Chính Khu tự trị
quyết định. Gặp trường hợp đặc biệt thì Ủy ban Hành chính khu tự trị đề nghị
lên Thủ tướng phủ quyết định.
Trong khi phân định thành phần địa
chủ, phú nông phải chú ý giải thích cho những nông dân lao động hiện nay có bóc
lột chút ít nhận rõ rằng: tuy họ có bóc lột, nhưng nếu họ không đủ tiêu chuẩn
là địa chủ, phú nông thì vẫn không bị vạch là địa chủ, phú nông và vẫn được đối
xử như nông dân lao động.
Sau khi xét thành phần, những địa
chủ, phú nông nào đủ tiêu chuẩn được thay đổi thành phần thì cơ quan chính quyền
cấp xã xét và đề nghị huyện quyết định cho họ được thay đổi thành phần theo như
chính sách đã quy định.
2. Giải
thích những vấn đề kinh tế còn lại:
Phương châm chung để giải quyết
những vấn đề về kinh tế còn lại của cải cách dân chủ là: việc gì xét ra thật cần
thiết mới đặt thành vấn đề để giải quyết, không xáo trộn, không gây trở ngại
cho sản xuất và đoàn kết ở nông thôn. Trong khi tiến hành, vấn đề nào có thể giải
quyết ngay thì giải quyết, nhưng cũng có những vấn đề phải giải quyết dần trong
một thời gian nhất định.
Đối với những ruộng đất trước đã
tạm cấp, tạm giao cho nông dân lao động, dù còn chênh lệch, nói chung cũng
không cần điều chỉnh trong nội bộ nông dân lao động với nhau, vì lúc này phong
trào hợp tác hóa đang phát triển, nếu đặt vấn đề điều chỉnh thì dễ gây ra xích
mích, không cần thiết. Nhưng cần tuyên bố việc xác định quyền sở hữu của người
được tạm cấp, tạm giao, đối với những ruộng đất ấy, nếu ruộng đất ấy vốn là của
địa chủ, tuy vậy, việc cấp giấy chứng nhận cũng không cần đặt ra như trong cải
cách ruộng đất. Nơi nào ruộng đất được tạm cấp, tạm giao là ruộng đất công thì
nay tuyên bố ruộng đất đó như đã trưng thu và chia cho người được tạm cấp, tạm
giao và khi vào hợp tác xã người đó đương nhiên có quyền mang ruộng đất được
chia vào hợp tác xã, như ruộng đất ấy là của riêng mình. Trâu bò tạm cấp, tạm
giao cũng không cần điều chỉnh, nhưng có thể vận động người có nhiều nhường bớt
cho người chưa có. Những trâu bò do các cơ quan nhà nước gửi nông dân giữ thì
các cơ quan đó nghiên cứu cụ thể và đề nghị giải quyết riêng.
Đối với ruộng đất, tài sản của
phú nông nói chung không đụng đến; nhưng phú nông nào có ruộng đất phát canh
thu tô hoặc cho mượn thì cho họ hiến (cũng có thể gọi là nhượng) hoặc trưng mua
để giao hẳn cho những nông dân lao động đang làm ruộng đất đó và tuyên bố cho họ
được hưởng như của riêng mình.
Đối với ruộng đất, tài sản của địa
chủ, cần phân biệt đối xử như sau: địa chủ nào hiện nay ruộng đất, trâu bò chiếm
hữu còn xấp xỉ số bình quân nhân khẩu của nông dân trong xã thì để như cũ. Địa
chủ nào có nhiều ruộng đất, trâu bò, nếu họ là địa chủ kháng chiến, địa chủ thường
thì cho hiến hoặc trưng mua phần có thừa; nếu là địa chủ phá hoại hiện hành hoặc
cường hào gian ác thì tịch thu, trưng thu theo nhu chính sách đã quy định. Đối
với địa chủ trước kia là cường hào gian ác (ở vùng tự do cũ thì trước cách mạng
tháng Tám, ở vùng mới giải phóng thì trước khi được giải phóng), nhưng nay tỏ
ra phục tùng pháp luật, cũng có thể trưng mua. Địa chủ nào phá hoại hiện hành
nghiêm trọng thì do Tòa án xét xử, quyết định tịch thu, trưng thu một phần hoặc
toàn bộ.
Nợ của địa chủ kể cả mới, cũ đều
tuyên bố xóa bỏ. Việc thoái tiền công quỵt, thoái tô, thoái tức không đặt ra.
Những tài sản khác của địa chủ nói chung không đụng đến. Tài sản kinh doanh
công thương nghiệp của địa chủ theo chính sách chung đã quy định là nhất thiết
không đụng đến.
Những quyền của địa chủ, phú
nông: bao chiếm rừng, đồi, khe suối, bắt nông dân biếu xén và bóc lột sức lao động
không trả tiền công bất cứ dưới hình thức gì, từ nay đều bị coi là không hợp
pháp và bị thủ tiêu.
Ruộng đất, trâu bò tịch thu,
trưng thu, trưng mua hoặc nhận hiến, của địa chủ thì chia cho nông dân lao động
còn thiếu, hoặc nếu nông dân ở địa phương căn bản đã vào hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp thì giao cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nào có nhiều hộ và có
nhiều khả năng kinh doanh nhất. Đầm, hồ lớn, rừng cây lớn hoặc những đất trồng
các loại cây đặc biệt của địa chủ, diện tích rộng lớn thì do Nhà nước quản lý,
hoặc giao cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp quản lý, không chia cho cá nhân sử
dụng.
Đối với các loại súng, nguyên tắc
giải quyết là: các loại súng trận đều phải tập trung vào tay dân quân du kích
hoặc bộ đội địa phương; súng nào dân quân du kích hoặc bộ đội địa phương dùng
không hợp thì giao lại cho quân đội chính quy. Súng trường ở trong tay nông dân
lao động mà người có súng đó là người tốt thì cứ để họ giữ và tổ chức họ vào
dân quân du kích hoặc họ không muốn vào thì Ủy ban Hành chính xã mượn súng của
họ cho dân quân du kích sử dụng. Trong trường hợp cần thiết và nếu người có
súng yêu cầu, Chính phủ sẽ đền bù cho họ một số tiền. Trường hợp được đền bù và
đền bù bao nhiêu sẽ do Bộ Công an và Bộ Tài chính quy định. Việc chuyển các loại
súng trận từ tay nhân dân lao động vào tay dân quân du kích hoặc bộ đội địa
phương phải làm dần dần, dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện của nhân dân, không
nên dùng mệnh lệnh, cưỡng ép. Súng trận ở trong tay địa chủ, phú nông thì trưng
thu giao cho dân quân du kích hoặc bộ đội địa phương sử dụng.
Súng kíp và súng đi săn thì nói
chung của ai người ấy vẫn được giữ, vì những thứ súng này cần để săn thú và bảo
vệ mùa màng. Nhưng cần tịch thu hoặc trưng thu súng kíp và súng đi săn của bọn
phản động hiện hành, vì nếu để cho chúng giữ vũ khí trong tay thì sẽ có thể xảy
ra những việc đáng tiếc.
Ngoài những điều nêu trên đây,
thể lệ đăng ký súng vẫn giữ nguyên như cũ.
Đối với vòng vía, nhẫn cưới, đồ
thờ cúng, vì mục đích tôn trọng phong tục tập quán và tự do tín ngưỡng của đồng
bào thiểu số, cho nên nhất thiết không được đụng đến những thứ đó, dù là của
nông dân lao động hay của địa chủ, phù nông cũng vậy.
3. Đối với
những người thuộc tầng lớp trên có liên hệ với quần chúng.
Trong khi giải quyết những vấn đề
còn lại của cải cách dân chủ, cần giải thích cho những người thuộc tầng lớp
trên có liên hệ với quần chúng, thuyết phục họ chấp hành đúng chính sách của Đảng
và Chính phủ. Nếu họ còn bóc lột thì giải thích cho họ từ nay cần bỏ hẳn bóc lột.
Nếu họ còn nhiều ruộng đất, trâu bò thì cho phép họ được hiến một phần cho
chính quyền nhân dân để chia cho nông dân lao động không có đất hoặc thiếu đất,
hoặc để giao cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nếu ở địa phương ai cũng đã có
đủ đất cày cấy.
Việc giải quyết những mâu thuẫn
về quyền lợi giữa nông dân lao động và tầng lớp trên có quan hệ với quần chúng
nên qua hình thức họp hội nghị liên hiệp thương gồm đại biểu Đảng và chính quyền
địa phương, đại biểu nông dân lao động và đại biểu các tầng lớp trên mà bàn bạc
và giải quyết cho được ổn thỏa.
4. Đối với
cán bộ, bộ đội, công nhân, viên chức xuất thân từ thành phần phú nông, địa chủ.
Những người đúng tiêu chuẩn
là địa chủ, phú nông nếu đã thoát ly gia đình đi công tác được 1 năm trở lên
thì bản thân không bị gọi là địa chủ, phú nông nữa. Còn gia đình họ nếu còn bóc
lột thì vẫn quy là địa chủ hoặc phú nông, nhưng cần chiếu cố thích đáng trong
khi giải quyết những vấn đề còn lại của cải cách dân chủ. Nếu gia đình họ đã
thôi bóc lột thì chiếu theo những điều quy định về thành phần giai cấp mà cho
thay đổi thành phần.
Đối với những cán bộ là địa chủ,
phú nông còn trực tiếp công tác ở xã, người nào không bóc lột nữa và có thái độ
tốt thì nói chung vẫn để họ giữ nguyên chức cũ. Người nào đến nay vẫn còn bóc lột
thì đối với bản thân họ nên tùy trường hợp mà cho rút lui, thay đổi công tác hoặc
điều động đi nơi khác công tác, còn đối với gian đình họ thì theo quy định
chung mà giải quyết.
IV. VẤN ĐỀ
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN HỢP TÁC HÓA NÔNG NGHIỆP KẾT HỢP HOÀN THÀNH CẢI CÁCH DÂN CHỦ Ở
MIỀN NÚI
Lãnh đạo cuộc vận động hợp tác
hóa nông nghiệp ở miền núi, về tinh thần chung là phải chú trọng vấn đề lãnh đạo
tư tưởng, lãnh đạo tổ chức, lãnh đạo chính sách, lãnh đạo kế hoạch,v.v… Nhưng
vì phải kết hợp giải quyết những vấn đề còn lại của cải cách dân chủ, cho nên
công tác có phức tạp hơn. Để lãnh đạo tốt cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp,
phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi, cần nhận
rõ những khó khăn và thuận lợi dưới đây:
Khó khăn:
- Miền núi diện tích rộng, nhân
dân ở phân tách, giao thông chưa thuận tiện, việc nắm tình hình và chỉ đạo công
tác còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
- Nhiều nơi lực lượng cán bộ dân
tộc còn thiếu và yếu. Quần chúng nông dân trình độ còn thấp; có nơi nhân dân
không biết tiếng phổ thông và chưa có chữ viết dân tộc.
- Ở một số xã còn có bọn thổ phỉ,
biệt kích, gián điệp hoạt động, uy hiếp quần chúng. Bọn đế quốc và tay sai đang
tìm hết cách phá hoại ta (nhất là ở các miền biên giới giáp Vương quốc Lào).
- Những vấn đề còn lại của cải
cách dân chủ là những trở lực cho cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp và phát
triển sản xuất. Do công tác giáo dục chính trị và phát động tư tưởng quần chúng
thiểu số có nhiều thiếu sót, cho nên nông dân miền núi tuy có giác ngộ dân tộc,
nhưng trình độ giác ngộ giai cấp còn thấp. Cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng
đất ở mấy trạm xã miền núi trước đây có mang lại quyền lợi cho nông dân các dân
tộc, nhưng phạm một số sai lầm nghiêm trọng, cho nên trong cán bộ và nhân dân
miền núi hiện nay có tâm lý sợ phát động quần chúng và cải cách dân chủ. Đó
cũng là một khó khăn nữa cho việc hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi.
Thuận lợi:
- Trải qua Cách mạng tháng Tám,
kháng chiến trường kỳ và từ khi hòa bình lập lại, các dân tộc miền núi đã giành
được nhiều quyền lợi, ý thức giác ngộ cách mạng đã bước đầu được nâng cao, tuyệt
đại đa số quần chúng tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch,
tin tưởng ở chế độ ta.
- Khả năng kinh tế ở miền núi dồi
dào, ta có điều kiện thuận lợi để cải thiện đời sống nhân dân và thay đổi bộ mặt
nông thôn miền núi.
- Phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp, phong trào cải tiến kỹ thuật, tăng gia sản xuất đang phát triển ở nhiều
vùng; quần chúng các dân tộc đã bước đầu thấy được tinh hơn hẳn của lối làm ăn
tập thể và hăng hái tham gia.
- Mấy tháng nay, các cấp đã chú
ý nghiên cứu nắm tình hình, tăng cường lãnh đạo cuộc vận động đổi công tác hợp
tác và phát triển sản xuất ở miền núi.
Đó là những thuận lợi căn bản của
tình hình miền núi hiện nay.
Nhìn chung, công tác ở miền núi
có nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi là chính. Chúng ta phải ra sức phát huy thuận
lợi, khắc phục khó khăn, đưa phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền núi tiến
lên mạnh mẽ và vững chắc, đồng thời giải quyết tốt những vấn đề còn lại của cải
cách dân chủ.
Về lãnh đạo, phải chú ý những vấn
đề sau:
1. Mỗi khu tự trị, mỗi tỉnh, huyện,
châu phải nhận rõ rằng: tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải
cách dân chủ là trách nhiệm của các cấp. Cụ thể là cấp xã trực tiếp chấp hành;
cấp tỉnh và huyện chỉ đạo, có bộ phận giúp việc. Các khu Tây Bắc và Việt Bắc phải
lãnh đạo chặt chẽ cuộc vận động của toàn khu. Mỗi cấp đều phải tăng cường cán bộ
chuyên trách và tập trung lực lượng để lãnh đạo cho tốt. Trước mắt phải tiếp tục
điều tra, nghiên cứu, nắm cho được tình hình địa phương mình, phân loại các xã
và chú ý điều tra xem những vấn đề của cải cách dân chủ tồn tại đến mức nào,
tình hình tổ đội công, hợp tác xã, tình hình, cán bộ, tình hình địch phá hoại,v.v…
Trên cơ sở đó mà định ra nội dung công tác và kế hoạch cho sát.
Các cấp giữ vững chế độ báo cáo
và xin chỉ thị. Phải báo cáo từng bước công tác và mỗi khi có việc gì đột xuất
phải xin chỉ thị cấp trên. Cấp trên phải chú trọng kiểm tra đôn đốc và giải quyết
kịp thời những vấn đề do cuộc vận động bên dưới đề ra.
2. Sau khi đã nắm tình hình và
kiểm điểm lại lực lượng cán bộ xã, nếu xã nào cán bộ không đủ khả năng đảm nhiệm
công tác thì phải tìm mọi cách bổ sung cán bộ cho xã ấy hoặc đưa thêm cán bộ về
giúp đỡ; đặc biệt chú ý nắm và giúp đỡ những xã có nhiều vấn đề khó khăn, phức
tạp phải giải quyết, nhất là những xã ở dọc theo biên giới và gần giới tuyến tạm
thời. Sau khi đã sắp xếp cán bộ cho các xã rồi thì lần lượt huấn luyện cho tất
cả cán bộ đó (cán bộ xã và cán bộ cấp trên phải về giúp). Tài liệu huấn luyện
chủ yếu là nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ 16 về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp và bản nghị quyết này. Nếu gặp chỉnh huấn chung thì kết hợp với chỉnh
huấn mà huấn luyện, làm cho cán bộ hiểu thấu nhiệm vụ công tác, nắm được đường
lối phương châm, chính sách và những yêu cầu căn bản của cuộc vận động hợp tác
hóa đoàn kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ, nắm được kế hoạch và phương pháp
tiến hành, có quan điểm đúng đắn đối với toàn bộ cuộc vận động. Phải đặc biệt
chú trọng vấn đề chỉnh huấn cho chi bộ xã hoặc nơi nào chưa có chi bộ thì chỉnh
huấn cán bộ và cốt cán xã.
3. Phương pháp tiến hành và phải
dựa vào cơ sở tổ chức xã, như chi bộ Đảng, Ủy ban hành chính xã, chi đoàn thanh
niên lao động, chi hội phụ nữ,v.v… Và tùy theo tình hình cụ thể của từng nơi, nếu
xét thấy cần thiết thì phải bước đầu kiện toàn những cơ quan phụ trách ở xã trước
rồi mới dựa. Trong qúa trình vận động, cần chú trọng tuyên truyền và bồi dưỡng
những nông dân lao động, nhất là những bần cố nông và trung nông lớp dưới hăng
hái và trung thực. Nơi nào cơ sở quá yếu thì phải dựa vào vào những cốt cán tốt
trong các tổ chức sẵn có và lựa chọn thêm những bần cố nông và trung nông lớp
dưới tốt, tích cực ở ngoài tổ chức, dựa vào họ mà tiến hành công tác, đồng thời
tích cực tạo điều kiện để xây dựng cơ sở xã cho tốt. Chú ý bồi dưỡng cốt cán
người các dân tộc thiểu số để tự họ lãnh đạo phong trào. Cán bộ do trên, phải về
giúp xã không bao biện làm thay, không lấy danh nghĩa là đoàn, đội của cấp trên
về làm, không được tự đặt ra chính sách và khẩu hiệu riêng biệt trái ngược với
tinh thần nghị quyết và chỉ thị đã ban hành.
4. Về nội dung từng bước công
tác phải tùy theo tình hình và những vấn đề cần giải quyết ở từng xã khác nhau
(có khi trong một xã tình hình từng bản cũng có chỗ khác nhau) mà định:
a) Loại xã thứ nhất gồm những xã
đã cải cách ruộng đất và những xã thuộc vùng giai cấp chưa phân hóa rõ mà tình
hình chính trị ổn định, thì dựa vào chi bộ hoặc lực lượng cán bộ đã được kiện
toàn mà tiến hành hợp tác hóa; tổ chức cho quần chúng học tập, tranh luận để
phân rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, giữa ta, bạn và địch, giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, và tùy theo phong trào ở từng nơi
mà tiến hành củng cố, phát triển tổ đội công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
b) Loại xã thứ hai gồm những xã
đã phát động quần chúng giảm tô, hoặc chưa qua giảm tô và cải cách ruộng đất,
nhưng đã qua nhiều cuộc vận động thực hiện cách chính sách lớn, vấn đề ruộng đất
căn bản đã được giải quyết, ranh giới giai cấp giữa địa chủ và nông dân đã rõ
ràng (hoặc đã tuyên bố chính thức hoặc chưa tuyên bố) thì dựa vào chi bộ hoặc lực
lượng cán bộ xã đã được kiện toàn, tiến hành vận động hợp tác hóa như loại xã
thứ nhất, đồng thời kết hợp giải quyết những vấn đề còn lại của cải cách dân chủ.
c) Loại xã thứ ba gồm những xã địa
chủ còn chiếm hữu tương đối nhiều ruộng đất, uy thế chính trị của chúng còn
tương đối lớn thì dựa vào chi bộ và lực lượng cán bộ xã đã được kiện toàn mà bồi
dưỡng cốt cán, tiến hành giáo dục chính sách, phát động tư tưởng quần chúng,
làm cho quần chúng phân rõ ranh giới địa chủ và nông dân, giữa lao động và bóc
lột, giải quyết những vấn đề cải cách dân chủ, rồi tiến hành giáo dục về hai
con đường phát triển của nông thôn, xây dựng tổ đổi công tác và hợp tác xã.
d) Loại xã thứ tư gồm những xã
có bọn thổ phỉ, biệt kích, gián điệp, phản động còn hoạt động, uy hiếp quần
chúng (không kể vùng giai cấp đã phân hóa rõ hay chưa, ở dọc biên giới hay ở nội
địa) thì dựa vào chi bộ hoặc lực lượng cán bộ xã đã được kiện toàn mà bồi dưỡng
cốt cán, phát động quần chúng tiễu phỉ, trừ biệt kích, gián điệp, tiến hành giải
quyết từng bước những vấn đề còn lại của cải cách dân chủ, xây dựng tổ đổi công
và hợp tác xã. Trong công tác tiễu phỉ, trừ gian, cần chú ý phối hợp chặt chẽ với
quân đội, du kích, công an.
Đối với các xã gần biên giới, dù
thuộc loại nào cách tiến hành cũng phải hết sức thận trọng. Việc chính ở đây là
kết hợp vận động hợp tác hóa phát triển sản xuất mà trấn áp bọn phá hoại hiện
hành; còn các vấn đề khác thì giải quyết dần, không nên gây ra tình hình khẩn
trương trong quần chúng nhân dân.
Đối với các loại xã kể trên, lúc
đầu khu Tự trị hoặc tỉnh, phải làm thí điểm để rút kinh nghiệm lãnh đạo. Việc
làm thí điểm phải do các cấp khu, tỉnh và huyện, châu nắm vững và tiến hành gọn,
kết hợp giải thích cho quần chúng các xã chung quanh để tránh gây ra tình trạng
vì hiểu lầm mà sinh ra hoang mang.
5. Về thời gian vận động, việc
tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp theo thời gian đã quy định chung mà tiến
hành. Các công tác hoàn thành cải cách dân chủ thì tùy theo từng xã, nội dung vấn
đề nhiều hay ít mà định. Xã nào xét ra không có khó khăn lớn thì có thể hoàn
thành nhiệm vụ công tác trong một vài tháng, không kể thời gian chuẩn bị. Xã
nào công tác phức tạp hơn, như phải tiến hành tiễu phỉ, trừ gian, đánh đổ địa
chủ,v.v… thì thời gian có thể dài hơn. Nói chung, thời gian công tác không nên
quá dài, nhưng tuyệt đối không được lướt nhanh, làm dối.
Tóm lại, cuộc vận động hợp tác
hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi là một cuộc cách
mạng to lớn và phức tạp, nhưng là một cuộc cách mạng ôn hòa. Vì vậy cách làm phải
nhẹ nhàng, đơn giản, nhưng kiên quyết, chặt chẽ và sâu sắc. Với khả năng tiềm
tàng to lớn của miền núi, công cuộc vận động hợp tác hóa kết hợp hoàn thành cải
cách dân chủ tiến hành được tốt sẽ phá bỏ được những trở lực trên con đường
phát triển của miền núi, tăng cường đoàn kết các dân tộc, đẩy mạnh sản xuất,
nâng cao đời sống của các dân tộc miền núi lên một bước, đưa miền núi tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội.
Mỗi châu, huyện miền núi phải họp
bàn với các xã để có kế hoạch cho từng xã và mỗi khu, mỗi tỉnh phải dựa trên cơ
sở đó mà đặt kế hoạch của khu và tỉnh mình. Các ngành có liên quan ở trung ương
và địa phương cũng phải có kế hoạch cụ thể của ngành mình nhằm phục vụ cho cuộc
vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải
cách dân chủ ở miền núi. Các kế hoạch ấy do cấp ủy Đảng lãnh đạo thống nhất các
ngành để phối hợp thực hiện. Kế hoạch của các khu, tỉnh và các ngành họp lại
thành kế hoạch chung của Trung ương.
Ủy ban dân tộc và Ban công tác
nông thôn trung ương đặt kế hoạch và thống nhất kế hoạch của các ngành trình Hội
đồng Chính phủ hoặc Thường vụ Hội đồng Chính phủ xét duyệt và có nhiệm vụ theo
dõi, giúp đỡ bên dưới tiến hành.
Ban Dân tộc và Ban công tác nông
thôn ở các địa phương miền núi phải được tăng cường. Trong Ban công tác nông
thôn ở những địa phương vừa có đồng bằng và miền núi phải có bộ phận chuyên
trách về miền núi để tránh tình trạng xem nhẹ công tác miền núi.
Công cuộc tiến hành hợp tác hóa
nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ phù hợp với
quyền lợi và nguyện vọng của quần chúng nông dân và của các dân tộc miền núi,
cho nên, với sự hăng hái hưởng ứng của quần chúng nông dân và của các dân tộc
miền núi, với tinh thần phấn đấu tích cực của cán bộ các cấp, các ngành nhất định
công cuộc đó sẽ đạt được kết quả tốt: tăng cường đoàn kết dân tộc, phát triển sản
xuất; mang lại cơm no, áo ấm cho các dân tộc miền núi và sẽ đưa miền núi tiến
lên chủ nghĩa xã hội.