Luật Đất đai 2024

Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính do Quốc hội ban hành

Số hiệu 56/2010/QH12
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Ngày ban hành 24/11/2010
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng
Loại văn bản Nghị quyết
Người ký Nguyễn Phú Trọng
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

QUỐC HỘI
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Nghị quyết số: 56/2010/QH12

Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2010

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC THI HÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1

Luật tố tụng hành chính được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.

Điều 2

1. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố đến ngày Luật này có hiệu lực:

a) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính được công bố thì áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 69 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính;

b) Thời hạn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố thì áp dụng theo quy định tại các điều 211, 215 và 236 của Luật tố tụng hành chính;

c) Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định nêu tại điểm a và điểm b khoản này được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

2. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực:

a) Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án thụ lý trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử sơ thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;

b) Đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án xét xử sơ thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mà có kháng cáo, kháng nghị, nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;

c) Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;

d) Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời gian kể từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố cho đến ngày Luật này có hiệu lực mà chưa có kháng nghị của người có thẩm quyền, thì việc kháng nghị được thực hiện theo Luật tố tụng hành chính;

đ) Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án xét xử và bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mà kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

3. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, nhưng đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực vẫn chưa được thi hành hoặc chưa thi hành xong thì được thi hành theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Điều 3

Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, người khiếu nại đã thực hiện việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01 tháng 6 năm 2006 đến ngày Luật này có hiệu lực, nếu khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Điều 4

1. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình khẩn trương củng cố cơ sở vật chất; bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự để bảo đảm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án và thi hành án hành chính khi Luật tố tụng hành chính có hiệu lực thi hành.

2. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật tố tụng hành chính trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật tố tụng hành chính trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

3. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.

Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010.

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI




Nguyễn Phú Trọng

48
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính do Quốc hội ban hành
Tải văn bản gốc Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính do Quốc hội ban hành

THE NATIONAL ASSEMBLY
-------

SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom – Happiness
---------

No. 56/2010/QH12

Hanoi, November 24, 2010

 

RESOLUTION

ON ENFORCEMENT OF THE ADMINISTRATIVE PROCEDURE LAW

THE NATIONAL ASSEMBLY OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

Pursuant to the 1992 Constitution of the Socialist Republic of Vietnam, which was amended and supplemented under Resolution No. 51/2001/QH10

RESOLVES:

th National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam at its 8th session, takes effect on July 1.2011.

1. From the date the Administrative Procedure Law is promulgated to the date this Law takes legal effect:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

b/ The time limit for requesting consideration of protests according to cassation procedures and the time limit for making a protest according to cassation or reopening procedures about a judgment or ruling which takes legal effect on or after the date the Administrative Procedure Law is promulgated

2. From the date the Administrative Procedure Law takes legal effect:

a/ Administrative cases which are accepted by courts before the date the Administrative Procedure Law takes legal effect but are brought for first-instance trial on or after the date the Administrative Procedure Law takes legal effect, shall be settled under the Administrative procedure Law;

b/ Administrative cases which are tried by first-instance courts before the date the Administrative Procedure Law takes effect but are appealed or protested against and brought for appellate trial on or after the date the Administrative Procedure Law takes effect, shall be settled under the Administrative Procedure Law;

c/ Judgments or rulings which have taken legal effect but are protested against according to cassation or reopening before the date the Administrative Procedure Law lakes effect and are brought for cassation or reopening trial on or after the date the Administrative Procedure Law takes effect, shall be settled under the Administrative Procedure Law;

d/ For judgments or rulings which have taken legal effect for which there are appeal applications for cassation or reopening trial during the period from the date the Administrative Procedure Law is promulgated to the date this Law takes legal effect and there is no protest made by a competent person, such protest shall be made under the Administrative Procedure Law;

e/ For administrative cases which have been tried by courts and court judgments or rulings have taken legal effect before the date the Administrative Procedure Law takes effect and only on or after the date this Law takes effect are they protested against according to cassation or reopening procedures, the bases for making such protest comply with the Ordinance on Procedures for Settlement of Administrative Cases.

3. Court judgments or rulings which take legal effect before the date the Administrative Procedure Law takes effect but have not yet been enforced or have not yet been completely enforced by the dale the Administrative Procedure Law takes effect, shall be enforced under the Administrative Procedure Law.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Articled 4

1. The Supreme People's Court, the Supreme People's Procuracy and the Government shall, within the ambit of their respective functions and tasks, expeditiously consolidate the physical foundations, supplement and provide professional training for the contingent of civil servants of the people's courts, people's procuracies and civil judgment enforcement agencies to meet the requirement of the settlement and enforcement of administrative cases when the Administrative Procedure Law takes effect.

2. The Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy shall, within the ambit of their respective functions and tasks, coordinate with the Vietnam Fatherland Front Central Committee and the Front's member organizations in, widely disseminating and publicizing the Administrative Procedure Law among cadres, civil servants, public employees and the population in order to enhance socialist legality, bring into play the effect of the Administrative Procedure Law in protecting the interests of the State and the rights and legitimate interests of individuals, agencies and organizations.

3. The Government, the Supreme People's Court and the Supreme People's Procuracy shall, within the ambit of their respective tasks and powers, implement and guide the implementation of this Resolution.

This Resolution was adopted on November 24, 2010, by the XIIth National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam at its 8th session.-

 

 

CHAIRMAN OF THE NATIONAL ASSEMBLY




Nguyen Phu Trong

 

Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính do Quốc hội ban hành
Số hiệu: 56/2010/QH12
Loại văn bản: Nghị quyết
Lĩnh vực, ngành: Thủ tục Tố tụng
Nơi ban hành: Thủ tướng Chính phủ
Người ký: Nguyễn Phú Trọng
Ngày ban hành: 24/11/2010
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 1, 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính
...
Điều 1. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực

1. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính được công bố (ngày 07-12-2010) thì áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 69 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; cụ thể như sau:

a) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật;

b) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản 2 Điều 67 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
...
3. Để có căn cứ tính thời hạn kháng nghị theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 2 NQ số 56 và hướng dẫn tại khoản 2 Điều này, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải có sổ thụ lý đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thông báo việc thụ lý đơn đề nghị cho đương sự biết. Trường hợp được hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều này thì người kháng nghị giám đốc thẩm phải chứng minh là đã nhận được đơn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự trong thời hạn quy định. Trường hợp cần thiết, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm có thể yêu cầu đương sự chứng minh là đã có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn quy định.

Xem nội dung VB
Điều 2

1. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố đến ngày Luật này có hiệu lực:

a) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính được công bố thì áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 69 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính;
Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 1, 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 2, 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính
...
Điều 1. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực
...
2. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố (ngày 07-12-2010) đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011) thì áp dụng theo quy định tại Điều 215 và Điều 236 của Luật tố tụng hành chính; cụ thể như sau:

a) Trường hợp đương sự không có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 02 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật;

b) Trường hợp đương sự có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 215 của Luật tố tụng hành chính (hết thời hạn 02 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có kháng nghị mà phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định thì người có quyền kháng nghị được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đó);

c) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 233 của Luật tố tụng hành chính.

3. Để có căn cứ tính thời hạn kháng nghị theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 2 NQ số 56 và hướng dẫn tại khoản 2 Điều này, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải có sổ thụ lý đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thông báo việc thụ lý đơn đề nghị cho đương sự biết. Trường hợp được hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều này thì người kháng nghị giám đốc thẩm phải chứng minh là đã nhận được đơn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự trong thời hạn quy định. Trường hợp cần thiết, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm có thể yêu cầu đương sự chứng minh là đã có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn quy định.

Xem nội dung VB
Điều 2

1. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố đến ngày Luật này có hiệu lực:
...
b) Thời hạn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố thì áp dụng theo quy định tại các điều 211, 215 và 236 của Luật tố tụng hành chính;
Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 2, 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 2, Điều 3 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính
...
Điều 2. Áp dụng pháp luật tố tụng hành chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực

1. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực pháp luật (ngày 01-7-2011), việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày này thì thủ tục áp dụng theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

2. Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hành chính tại thời điểm giải quyết và bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011) thì không căn cứ vào quy định của Luật tố tụng hành chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Điều 3. Áp dụng pháp luật tố tụng hành chính để xét xử vụ án hành chính

Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực pháp luật (ngày 01-7-2011), việc xét xử sơ thẩm đối với những vụ án hành chính đã được Toà án thụ lý trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực; việc xét xử phúc thẩm những vụ án hành chính đã được Tòa án xét xử sơ thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mà có kháng cáo, kháng nghị; việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực thì đều được thực hiện theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính.

Xem nội dung VB
Điều 2
...
2. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực:

a) Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án thụ lý trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử sơ thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;

b) Đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án xét xử sơ thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mà có kháng cáo, kháng nghị, nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;

c) Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;

d) Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời gian kể từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố cho đến ngày Luật này có hiệu lực mà chưa có kháng nghị của người có thẩm quyền, thì việc kháng nghị được thực hiện theo Luật tố tụng hành chính;

đ) Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án xét xử và bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mà kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 2, Điều 3 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Điều kiện thụ lý khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai tại Điều này được hướng dẫn bởi Điều 4 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)
Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn Nghị quyết 56/2010/QH12 về thi hành Luật tố tụng hành chính
...
Điều 4. Điều kiện thụ lý khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai quy định tại Điều 3 NQ số 56

1. Toà án chỉ thụ lý giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai (nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại khoản 2 Điều 6 của Luật đất đai năm 2003) quy định tại Điều 3 NQ số 56 khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Việc khởi kiện được thực hiện trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011);

b) Người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011) mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và họ chưa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân hoặc đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân, nhưng Toà án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

2. Đối với trường hợp Tòa án đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án nêu tại điểm b khoản 1 Điều này và đương sự có đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào Điều 3 NQ số 56 để thụ lý giải quyết.

3. Khi thụ lý giải quyết các khiếu kiện quy định tại Điều 3 NQ số 56 và được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này, ngoài việc yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ theo quy định tại Điều 72 của Luật tố tụng hành chính thì phải yêu cầu người khởi kiện cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc họ đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực. Trường hợp người khởi kiện không thể cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc họ đã thực hiện việc khiếu nại thì Toà án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ về việc người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại và hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có). Trường hợp cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thông báo là người khởi kiện chưa thực hiện việc khiếu nại thì Toà án không thụ lý giải quyết.

4. Việc giải quyết các khiếu kiện theo quy định tại Điều 3 NQ số 56 và được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Xem nội dung VB
Điều 3

Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, người khiếu nại đã thực hiện việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01 tháng 6 năm 2006 đến ngày Luật này có hiệu lực, nếu khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Điều kiện thụ lý khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai tại Điều này được hướng dẫn bởi Điều 4 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 12/9/2011 (VB hết hiệu lực: 01/07/2016)