Nghị quyết số 414/2003/NQ-UBTVQH11 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước do Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành
Số hiệu | 414/2003/NQ-UBTVQH11 |
Ngày ban hành | 29/08/2003 |
Ngày có hiệu lực | 30/09/2003 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Uỷ ban Thường vụ Quốc hội |
Người ký | Nguyễn Văn An |
Lĩnh vực | Chứng khoán,Tài chính nhà nước |
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 414/2003/NQ-UBTVQH11 |
Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2003 |
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ ĐỂ XÂY DỰNG MỘT SỐ CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG, THUỶ LỢI QUAN TRỌNG CỦA ĐẤT NƯỚC
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội;
Căn cứ vào Luật ngân sách nhà nước;
Sau khi xem xét Đề án phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước tại Tờ trình số 62/CP-KTTH ngày 18 tháng 8 năm 2003 của Chính phủ, Báo cáo ý kiến của Thường trực Uỷ ban kinh tế và ngân sách số 471/UBKTNS ngày 22 tháng 8 năm 2003;
QUYẾT NGHỊ:
1. Nhất trí chủ trương, nội dung phát hành trái phiếu Chính phủ để bổ sung thêm vốn đầu tư xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước (ngoài các dự án đã được bố trí vốn đầu tư theo kế hoạch hàng năm) như nêu trong Đề án của Chính phủ nhằm đẩy nhanh việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng và an ninh theo nghị quyết của Quốc hội.
2. Phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ tác động đến mức bội chi ngân sách nhà nước, tăng thêm số dư nợ và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ trong thời gian tới. Do đó, quy mô phát hành trái phiếu Chính phủ trong từng năm cần được tính toán kỹ, chỉ đạo sát sao, chủ động xử lý những phát sinh ảnh hưởng đến cân đối ngân sách nhà nước, giữ vững an ninh tài chính quốc gia, giữ tổng mức dư nợ Chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia trong mức an toàn theo thông lệ quốc tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
3. Cần sắp xếp danh mục các công trình đầu tư có đủ thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản theo thứ tự ưu tiên, có lộ trình cụ thể, phân kỳ đầu tư hợp lý để tập trung làm dứt điểm, tránh dàn trải, bảo đảm đủ vốn để hoàn thành đúng tiến độ, đưa nhanh công trình vào sử dụng, không để công trình dở dang kéo dài nhiều năm; tăng cường các biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát chất lượng công trình; sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ.
4. Chính phủ phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan hữu quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền về mục đích, lợi ích của chủ trương lớn này đối với phát triển kinh tế - xã hội, về lợi ích của tổ chức, cá nhân mua trái phiếu.
Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan hữu quan đề xuất với Chính phủ, Quốc hội ý kiến về những vấn đề liên quan đến việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này.
5. Chính phủ tổ chức sớm việc phát hành trái phiếu Chính phủ đợt đầu và báo cáo Quốc hội khoá XI tại kỳ họp thứ 4; hàng năm báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện việc huy động, sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu Chính phủ và dự kiến kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ năm sau.
6. Uỷ ban kinh tế và ngân sách, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội giám sát việc phát hành trái phiếu Chính phủ và sử dụng nguồn vốn này; trong trường hợp phát hiện thấy có vi phạm thì kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền khác xem xét, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
|
Nguyễn Văn An (Đã ký) |