Nghị quyết 31/2012/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 do Quốc hội ban hành

Số hiệu 31/2012/QH13
Ngày ban hành 08/11/2012
Ngày có hiệu lực 08/11/2012
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Quốc hội
Người ký Nguyễn Sinh Hùng
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

QUỐC HỘI
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Nghị quyết số: 31/2012/QH13

Hà Nội, ngày 08 tháng 11 năm 2012

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013

QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một sđiều theo Nghị quyết s 51/2001/QH10;

Trên cơ sở xem xét các Báo cáo ca Chính phủ, Tòa án nhân dân ti cao, Viện kim sát nhân dân tối cao, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan hữu quan và ý kiến đại biu Quốc hội,

QUYẾT NGHỊ

I. VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012

Năm 2012, kinh tế thế giới tiếp tục biến động phức tạp, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, kinh tế - xã hội đã có chuyển biến nhất định. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn, lạm phát được kiềm chế. Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi; sản xuất nông nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn phát triển n định; du lịch, dịch vụ tăng khá; các đề án tái cơ cấu nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược được chú trọng xây dựng và bước đầu triển khai thực hiện; an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm; các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa - thông tin và truyền thông đạt được một số kết quả; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; hoạt động đối ngoại, quốc phòng được tăng cường, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Tuy nhiên, áp lực lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn; các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tổng đầu tư toàn xã hội, tạo việc làm mới, tỷ lệ giảm nghèo, tỷ lệ che phủ rừng không đạt được kế hoạch đề ra. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; lãi suất, nợ xấu ngân hàng ở mức cao; hoạt động của một số ngân hàng thương mại thiếu minh bạch và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là trong tiếp cận vốn tín dụng, hàng hóa tồn kho nhiều; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn ở mức cao. Thị trường bt động sản trm lắng, chưa có khả năng phục hồi; thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh; thị trường vàng còn nhiều biến động; tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng chưa được ngăn chặn hiệu quả, ảnh hưởng xấu đến sản xuất, tiêu dùng và tâm lý xã hội. Kinh tế tăng trưởng chậm lại tác động tiêu cực đến việc làm, giảm nghèo; đời sống của người dân, nhất là đối tượng chính sách, người nghèo, người lao động có thu nhập thấp. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn chưa có sự chuyển biến căn bản. Tai nạn giao thông có giảm nhưng còn ở mức cao. Tình trạng khiếu kiện, tội phạm, tệ nạn xã hội, tham nhũng còn diễn biến phức tạp.

Quốc hội yêu cầu Chính phủ từ nay đến cuối năm tiếp tục tập trung chỉ đạo giải quyết hàng hóa tồn kho và nợ xấu. Cần tập trung xử lý các mặt hàng tồn kho cao, chủ yếu là sắt thép, xi măng, vật liệu xây dựng, căn hộ nhà chung cư, đẩy mạnh tuyên truyền khuyến khích, mở các đợt bán giảm giá thu hút người tiêu dùng; tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là các mặt hàng nông, thủy, hải sản; khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của nhau. Các ngân hàng thương mại, trước hết là ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cphần Nhà nước nắm quyền chi phối phải chia sẻ và tham gia tháo gỡ khó khăn cùng với doanh nghiệp; các tổ chức tín dụng cần nhận thức tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp chính là tháo gỡ khó khăn cho chính hệ thống tổ chức tín dụng mình, cần sớm hoàn thành việc rà soát lại các công trình đầu tư dở dang đang bị giãn, hoãn tiến độ, đẩy nhanh việc thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản; tập trung đầu tư hoàn thiện các dự án trọng yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, ngành, vùng, địa phương. Khẩn trương chỉ đạo giải ngân các chương trình mục tiêu quốc gia, bảo đảm chất lượng.

II. VỀ MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU NĂM 2013

1. Mục tiêu tổng quát

Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 5,5%.

Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%.

Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 8%.

Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4,8% GDP.

Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 8%.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP.

Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%.

Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động.

Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%.

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 16%.

Số giường bệnh trên một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 22 giường.

Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 84%.

Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 75%.

[...]