Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Nghị quyết 22/NQ-CP năm 2020 về ổn định dân di cư tự do và quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường do Chính phủ ban hành

Số hiệu 22/NQ-CP
Ngày ban hành 01/03/2020
Ngày có hiệu lực 01/03/2020
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Nguyễn Xuân Phúc
Lĩnh vực Bất động sản,Văn hóa - Xã hội

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 22/NQ-CP

Hà Nội, ngày 01 tháng 3 năm 2020

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ ỔN ĐỊNH DÂN DI CƯ TỰ DO VÀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT CÓ NGUỒN GỐC TỪ NÔNG, LÂM TRƯỜNG

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở kết quả của Hội nghị về giải pháp ổn định dân di cư tự do trên địa bàn cả nước và quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường tại Tây Nguyên ngày 09 tháng 12 năm 2018, biểu quyết của các Thành viên Chính phủ,

QUYẾT NGHỊ:

I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và địa phương luôn quan tâm chỉ đạo, thực hiện công tác bố trí, sắp xếp ổn định dân di cư tự do và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường, đảm bảo an sinh xã hội, an ninh, trật tự an toàn xã hội góp phần phát triển kinh tế - xã hội;

Tuy vậy, ở một số địa phương tình hình dân di cư tự do chưa chấm dứt, số hộ dân đã di cư tự do cần bố trí ổn định còn rất lớn, đời sống còn nhiều khó khăn; tình hình quản lý, sử dụng đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường chưa đảm bảo kỷ cương pháp luật hiệu quả thấp, tình trạng khiếu kiện, lấn chiếm, tranh chấp đất vẫn diễn biến phức tạp; hành vi phá rừng, lấn chiếm trái pháp luật diễn biến phức tạp. Vì vậy, cần một giải pháp căn cơ, quyết liệt tổ chức thực hiện hạn chế, chấm dứt tình trạng trên trong thời gian tới.

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

Di cư tự do là một hiện tượng mang tính phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam, dân di cư tự do diễn ra từ nhiều năm qua với số lượng lớn: giai đoạn từ năm 2005 đến tháng 4/2019 tổng số hộ dân di cư tự do khoảng 67 nghìn hộ, nhưng trong những năm gần đây, với sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng và nhận thức của người dân được nâng lên, tình trạng dân di cư tự do đã giảm mạnh, đặc biệt là số lượng người dân di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc vào các tỉnh Tây Nguyên (năm 2005 là 2.690 hộ, năm 2017 là 318 hộ, năm 2018 là 238 hộ và 4 tháng đầu năm 2019 là 104 hộ). Tình trạng dân di cư tự do đã gây ra hệ lụy lớn về an sinh xã hội và tình hình an ninh chính trị, quốc phòng.

1. Kết quả đạt được

- Hệ thống cơ chế, chính sách, các văn bản pháp luật về công tác bố trí dân cư và quản lý, sử dụng đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường đã được ban hành kịp thời và tương đối đầy đủ; hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường được nâng cao. Các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện rà soát, hoàn thiện để phê duyệt Đề án sắp xếp, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; tổ chức cắm mốc ranh giới; đo đạc lập bản đồ địa chính, lập Phương án sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các công ty nông, lâm nghiệp.

- Chương trình bố trí dân cư đã được triển khai và đạt được những kết quả tích cực. Các bộ, ngành và địa phương đã nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong việc giải quyết tình trạng dân di cư tự do, bố trí ổn định dân cư, xử lý các điểm nóng về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; lồng ghép nguồn vốn của các Chương trình dự án khác trên địa bàn (như: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,...), vốn đối ứng ngân sách địa phương để thực hiện bố trí ổn định dân cư, nhiều công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, đời sống vật chất, tinh thần và nhận thức của người dân ngày càng được nâng lên, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Giai đoạn 2005 - 2017 các địa phương đã thực hiện bố trí ổn định được hơn 42 nghìn hộ dân di cư tự do và tình trạng dân di cư tự do đã giảm mạnh trong thời gian gần đây.

2. Một số tồn tại, hạn chế chủ yếu

- Công tác tuyên truyền vận động người dân còn hạn chế, công tác quản lý địa bàn, quản lý dân cư ở một số địa phương chưa chặt chẽ, việc đăng ký nhập hộ khẩu thường trú còn nhiều vướng mắc chưa được giải quyết, đến nay còn hàng chục nghìn hộ dân di cư tự do chưa được đăng ký hộ khẩu. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương và các địa phương để giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong bố trí, ổn định dân cư còn hạn chế. Việc giao thực hiện công tác bố trí ổn định dân cư ở một số địa phương chưa thống nhất giao cho một cơ quan làm đầu mối mà giao cho các cơ quan khác nhau như: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Dân tộc, ... nên việc tổng hợp và báo cáo còn khó khăn và chưa thống nhất số liệu giữa các bên (đặc biệt là nhu cầu bố trí dân cư).

- Đời sống và sản xuất của một bộ phận người dân di cư tự do còn gặp nhiều khó khăn, việc phục hồi sản xuất chưa bền vững, thiếu đất ở, đất sản xuất, thiếu nước và điện sinh hoạt, thu nhập thấp, nơi ở tạm bợ, không ổn định, thiếu cán bộ kỹ thuật và nguồn vốn bố trí cho công tác khuyến nông, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số di cư từ các tỉnh phía Bắc vào Tây Nguyên, nhiều hộ dân chưa được hưởng các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn, tiềm ẩn gia tăng tình trạng người dân di cư tự do đi nơi khác và gây mất trật tự an toàn xã hội.

- Nguồn lực đất đai chưa thực sự phát huy hiệu quả do quá trình xây dựng cơ chế, chính sách chưa đánh giá hết được tính phức tạp khi cổ phần hóa; tính chất đặc thù và tính tổng thể về địa bàn, đối tượng, mô hình hoạt động. Diện tích đất rừng ngày càng bị thu hẹp do chưa hoàn thành việc cắm mốc, xác định ranh giới cụ thể ngoài thực địa và việc xử lý, giải quyết nhiều vụ việc có liên quan đến tranh chấp, lấn chiếm đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường kéo dài, chưa dứt điểm.

- Nguồn kinh phí cấp để thực hiện chương trình, dự án về bố trí ổn định dân di cư tự do và quản lý, sử dụng đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường chưa kịp thời, mới đáp ứng được khoảng 30% so với nhu cầu vốn được duyệt. Mặt khác, chính sách hỗ trợ di dân (đặc biệt là di dân xen ghép) còn hạn chế, mặc dù đã được Nhà nước nhiều lần thay đổi quy định theo hướng điều chỉnh hỗ trợ cao hơn, song hiện nay mức hỗ trợ vẫn còn thấp, chưa phù hợp với thực tế, dẫn đến nhiều chương trình, dự án thực hiện dở dang, kéo dài nhiều năm và không có hoặc thiếu vốn để thực hiện.

III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1. Chính quyền các cấp cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác bố trí ổn định dân cư; không khuyến khích dân di cư tự do và xác định rõ việc giữ dân và ổn định tại chỗ là nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của cả hệ thống chính trị, nhất là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đã di cư tự do có nơi cư trú hợp pháp, sinh kế bền vững, có đất sản xuất, được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và bảo đảm an sinh xã hội.

2. Phát huy nguồn lực đất đai trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; giải quyết ổn định tình hình trật tự, an ninh chính trị thông qua việc đảm bảo quỹ đất sản xuất cho người dân trong đó có đồng bào di dân tự do; giải quyết căn bản tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất đai, phá rừng, suy thoái đất đai, nguồn nước và môi trường; không để đất đai hoang hóa, sa mạc hóa và phát triển nghề rừng.

3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bố trí ổn định dân cư, đặc biệt là giải pháp về an sinh xã hội nhằm ổn định đời sống của người dân để từ đó chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Đồng thời, tập trung các nguồn lực thực hiện có hiệu quả công tác bố trí dân cư, hỗ trợ phát triển sản xuất bền vững, ổn định đời sống lâu dài cho người dân di cư tự do. Trước mắt, tập trung nguồn lực để xử lý dứt điểm các tồn tại, vướng mắc và bố trí, sắp xếp số hộ đã di cư tự do đang sống phân tán tại các địa phương vào các điểm dân cư theo quy hoạch (khoảng 24.800 hộ). Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ nếu để người dân của tỉnh mình tiếp tục di cư tự do đi tỉnh khác lấn chiếm đất đai của các nông, lâm trường, doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức khác.

4. Tăng cường công tác quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường.

IV. MỤC TIÊU

1. Phấn đấu đến năm 2020:

- Giảm thiểu tối đa tình trạng di dân tự do; ưu tiên thực hiện bố trí ổn định cho các hộ dân thực sự khó khăn, cấp bách vào các điểm dân cư theo quy hoạch; đồng thời, hoàn thành dứt điểm các dự án bố trí ổn định dân di cư tự do đang thực hiện dở dang;

[...]