BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
-------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 18-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 16
tháng 6 năm 2022
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI
NGHỊ LẦN THỨ NĂM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII
VỀ “TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, CHÍNH
SÁCH, NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT, TẠO ĐỘNG LỰC ĐƯA NƯỚC
TA TRỞ THÀNH NƯỚC PHÁT TRIỂN CÓ THU NHẬP CAO”
I-TÌNH HÌNH
Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI, chính sách, pháp luật về đất đai đã có nhiều đổi mới, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu thực tiễn, từng bước tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý và sử dụng
đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thực hiện theo
hướng tiếp cận tổng hợp, liên ngành và trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước
thống nhất quản lý, phân bổ và sử dụng đất đai. Nguồn lực đất đai được khai
thác, sử dụng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh và bảo vệ môi trường; góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo sự
bình đẳng hơn giữa các chủ thể sử dụng đất; bước đầu khắc phục được tình trạng
giao đất, cho thuê đất tùy tiện, tràn lan. Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Lợi ích của các bên liên quan
trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất, cũng như đời sống, sinh kế
của người có đất bị thu hồi được quan tâm và bảo đảm tốt hơn. Quyền và nghĩa vụ
của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được bảo đảm và phát huy, nhất là
trong sử dụng đất nông nghiệp.
Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền
sử dụng đất phát triển tương đối nhanh; thể chế, chính sách phát triển thị trường
bất động sản và chính sách tài chính trong lĩnh vực đất đai từng bước được hoàn
thiện. Chính sách ưu đãi về thuế, miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã
góp phần quan trọng thu hút đầu tư, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh
tế - xã hội khó khăn. Chính sách đất đai về nhà ở xã hội đạt được một số kết quả
quan trọng. Khung giá đất và bảng giá đất được xây dựng theo quy định, có tính
đến giá đất phổ biến trên thị trường.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật về đất đai, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
và vi phạm pháp luật về đất đai có chuyển biến tích cực; nhiều vụ việc tham
nhũng, vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai được xử lý nghiêm minh. Năng lực
quản lý nhà nước về đất đai từng bước được nâng cao; hệ thống tổ chức, bộ máy
quản lý đất đai từng bước được kiện toàn. Cải cách hành chính trong lĩnh vực đất
đai được coi trọng hơn. Việc đăng ký đất đai lần đầu, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đạt tỷ lệ cao.
Cơ sở dữ liệu về đất đai bước đầu được quan tâm xây dựng.
Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất còn nhiều
hạn chế. Một số nội dung của Nghị quyết chưa được thể chế hóa hoặc thể chế hóa
chậm, chưa đầy đủ; Luật Đất đai và một số văn
bản pháp luật có liên quan còn chồng chéo, chưa thống nhất, đồng bộ. Trong một
số trường hợp, chính sách, pháp luật về đất đai chưa theo kịp sự thay đổi nhanh
chóng của thực tiễn.
Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy
hoạch có sử dụng đất chưa bảo đảm tính tổng thể, thống nhất và đồng bộ. Chất lượng
quy hoạch chưa cao, thiểu tầm nhìn dài hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
bền vững. Việc giao đất, cho thuê đất ở một số nơi còn nhiều bất cập, sai phạm.
Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở một số nơi
còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất ở một số địa phương thực hiện còn chậm, chưa
đúng Nghị quyết và các quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi, đời
sống và sinh kế của người có đất bị thu hồi, gây thất thoát ngân sách nhà nước.
Chưa có cơ chế hữu hiệu và chưa kiên quyết xử lý các dự án chậm tiến độ hoặc
không đưa đất vào sử dụng.
Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền
sử dụng đất phát triển chưa ổn định, minh bạch, bền vững, tiềm ẩn nhiều rủi ro;
thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp chậm phát triển. Cải cách hành chính
trong quản lý đất đai còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; việc tiếp
cận đất đai của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó
khăn. Công tác đăng ký, thống kê đất đai, đặc biệt là đăng ký biến động đất đai
chưa thực hiện nghiêm, vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người
dân, doanh nghiệp.
Chính sách tài chính trong lĩnh vực đất đai chưa thực
sự khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, bền vững; chưa hạn chế được
tình trạng lãng phí và vi phạm pháp luật về đất đai; cơ cấu nguồn thu từ đất
chưa bền vững. Các phương pháp định giá, đấu giá quyền sử dụng đất còn bất cập,
chưa phù hợp với thực tế. Giá đất được xác định thưởng thấp hơn nhiều so với
giá đất trên thị trường. Chưa xử lý triệt để tình trạng chênh lệch giá đất giáp
ranh giữa các địa phương. Chưa có chế tài xử lý hành vi sai phạm trong xác định
giá đất, đấu giá quyền sử dụng đất.
Năng lực quản lý nhà nước về đất đai chưa đáp ứng
được yêu cầu. Cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin đất đai chưa được hoàn thiện.
Tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và vi phạm pháp luật về đất đai còn diễn biến phức
tạp; đơn, thư tố cáo về đất đai có xu hướng tăng; nhiều vụ việc chậm được xử
lý, giải quyết, gây bức xúc xã hội.
Đất đai chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả để trở
thành nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Suy
thoái, ô nhiễm, sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng đất nông nghiệp,
đất dự án bị bỏ hoang còn nhiều. Chưa giải quyết cơ bản một số vướng mắc, bất cập
liên quan đến quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh;
đất quốc phòng, an ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất của các
cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất
tôn giáo; đất sử dụng nhiều mục đích.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ
yếu là do: Chưa có sự thống nhất cao về nhận thức đối với một số vấn đề liên
quan đến quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhất là về tầm quan trọng và ý nghĩa của sở hữu toàn dân về đất đai
do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhận thức về chính
sách, pháp luật về đất đai có nơi, có lúc chưa đúng, chưa đầy đủ. Ý thức chấp
hành pháp luật về đất đai của một bộ phận cán bộ và người dân còn hạn chế. Đất
đai có tính lịch sử, nguồn gốc đa dạng, phức tạp, nhạy cảm.
Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế,
bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở
để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát,
lãng phí tài sản nhà nước.
Một số nhiệm vụ đã được đề cập trong Nghị quyết
nhưng chưa được tổ chức thực hiện tốt. Công tác thi hành chính sách, pháp luật
về đất đai chưa nghiêm. Việc phân cấp, phân quyền quản lý, sử dụng đất chưa hợp
lý, chưa đi đôi với kiểm tra, giám sát, kiểm soát; chưa rõ trách nhiệm giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong vai trò đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý nhà nước về đất đai. Chưa xử lý tốt các mối quan hệ lớn trong quản
lý, sử dụng đất và những tồn tại, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất do lịch
sử để lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về đất đai có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, dứt điểm và chưa đúng pháp luật;
còn tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý
nhà nước về đất đai chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn; cơ chế và nguồn lực đầu
tư cho bộ máy quản lý còn nhiều bất cập.
II- QUAN ĐIỂM
1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ
sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất,
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính
sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo
ra. Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật,
bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình. Quản lý
và sử dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân được tạo điều
kiện tiếp cận, sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả và bền vững.
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ
quốc gia, cả về diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, môi trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước ở Trung
ương, đồng thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với địa phương
và tăng cường kiểm ưa, giám sát, kiểm soát, xử lý vi phạm.
2. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và
hàng hóa đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ
sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại
đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện
chính sách, pháp luật về đất đai; không điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao
cho hộ gia đình, cá nhân; kịp thời có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được
khai thác, sử dụng với hiệu quả cao nhất.
3. Thể chế, chính sách về đất đai phải được
hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử
dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai;
kiên quyết khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu
cơ và sử dụng đất đai lãng phí.
4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về đất đai. Hiện đại hoá công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai. Củng cố,
hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả,
tập trung, đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai trò và năng lực các cơ quan tư
pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Đất đai phải được
điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, lượng hóa, hạch toán đầy đủ trong nền
kinh tế; được quy hoạch sử dụng hiệu quả, hợp lý với tầm nhìn dài hạn, hài hòa
lợi ích giữa các thế hệ, các vùng, miền, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo
đảm quốc phòng, an ninh; phát triển giáo dục, văn hóa, thể thao; bảo vệ môi trường
và thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giải
quyết tốt những bất cập, vướng mắc trong quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại
và từ yêu cầu mới của thực tiễn.
5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
về đất đai.
III- MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng
đất đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết
kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi
trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước
phát triển có thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền
sử dụng đất, trở thành kênh phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu quả.
2. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2025:
Đến năm 2023 phải hoàn thành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và một số luật liên
quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và
hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục
tiêu và kết nối liên thông. Hoàn thành kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về đất đai bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất; loại bỏ
khâu trung gian, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp, kèm theo cơ chế kiểm
tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc
có liên quan đến quản lý và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc
doanh; đất quốc phòng, an ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất của
các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất
lấn biển; đất tôn giáo; đất nghĩa trang; đất kết hợp sử dụng nhiều mục đích; đất
ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Đến năm 2030:
Hệ thống pháp luật về đất đai cơ bản được hoàn thiện
đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục bằng được tình trạng sử dụng đất lãng phí, để
đất hoang hoá, ô nhiễm, suy thoái và những tồn tại, vướng mắc về quản lý và sử
dụng đất do lịch sử để lại.
IV- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1. Thống nhất nhận thức trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân về quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo
dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, đầy đủ về đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhất là về
quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật; quyền và nghĩa vụ
của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất. Đất
đai là nguồn lực to lớn cần được phát huy, quản lý và sử dụng có hiệu quả, bền
vững, bảo đảm công bằng xã hội; không để bị suy thoái, hủy hoại, lãng phí, tham
nhũng, tiêu cực.
2. Hoàn thiện thể chế, chính
sách quản lý và sử dụng đất đồng bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Trọng tâm là sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu phát
triển mới, cụ thể:
2.1. Đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất
Các quy hoạch quốc gia cũng như quy hoạch sử dụng đất
và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải bảo đảm phù hợp, thống nhất,
đồng bộ, gắn kết chặt chẽ thúc đẩy lẫn nhau để phát triển. Quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất được lập ở cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện, đáp ứng yêu cầu thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm quốc
phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nội dung quy
hoạch sử dụng đất phải kết hợp giữa chỉ tiêu các loại đất gắn với không gian,
phân vùng sử dụng đất, hệ sinh thái tự nhiên, thể hiện được thông tin đến từng
thửa đất. Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất,
tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất. Quy định rõ, chặt chẽ việc
phê duyệt, ban hành kế hoạch sử dụng đất hằng năm. Nhà nước bảo đảm đủ nguồn lực
để lập quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất.
2.2. Hoàn thiện các quy định về giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông
qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định cụ thể về
đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; hạn chế và quy định
chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử
dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; bảo đảm công khai, minh bạch, có cơ chế
đồng bộ, cụ thể để xử lý vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, nhất là
liên quan tới đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Cơ bản thực hiện hình thức cho thuê đất trả tiền hằng
năm và quy định cụ thể các trường hợp trả tiền thuê đất một lần, phù hợp với
tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định, tránh thất thoát
ngân sách nhà nước. Nhà nước thực hiện giao đất có hạn mức không thu tiền sử dụng
đất đối với đất sử dụng làm cơ sở thờ tự, trụ sở của các tổ chức tôn giáo. Các
tổ chức tôn giáo sử dụng đất vào mục đích khác phải trả tiền thuê đất cho Nhà
nước theo quy định của pháp luật. Quy định điều kiện giao đất, cho thuê đất, hạn
mức sử dụng đối với các tổ chức tôn giáo phù hợp với quỹ đất hiện có của địa
phương.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc
chuyển mục đích sử dụng đất, đặc biệt là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất
rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên, đất của các doanh nghiệp nhà
nước thoái vốn, cổ phần hóa và các loại đất được sử dụng đa mục đích; tăng cường
phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trong chuyển mục đích sử dụng đất.
2.3. Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế -
xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
Việc thu hồi đất phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; chỉ được thực hiện sau
khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt. Đối với trường hợp
thu hồi đất mà phải bố trí tái định cư thì phải hoàn thành bố trí tái định cư
trước khi thu hồi đất. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đi trước một
bước, bảo đảm công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước, người có đất
bị thu hồi và nhà đầu tư theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật; có quy định cụ thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để
sau khi thu hồi đất thì người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, bảo đảm cuộc
sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Thực hiện có hiệu quả việc đào tạo nghề, tạo
việc làm, tổ chức lại sản xuất, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi.
Tiếp tục thực hiện thí điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước.
Quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm
vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tiếp tục thực hiện cơ chế
tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng
đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại. Hoàn thiện tổ chức, bộ
máy, cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các tổ chức phát triển quỹ đất, bảo
đảm tinh gọn, hoạt động hiệu quả, đủ năng lực tạo lập, quản lý, khai thác quỹ đất,
thực hiện tốt nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Quy định cụ thể việc khai thác hiệu quả quỹ đất phụ
cận các công trình kết cấu hạ tầng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và
chính sách ưu tiên cho người có đất ở bị thu hồi đất được giao đất hoặc mua nhà
trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật. Đối với các
dự án phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất,
cần sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân có quyền sử dụng đất tham gia với nhà đầu tư để thực hiện các dự án dưới
hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Quy định cơ chế góp quyền sử dụng đất, điều chỉnh lại
đất đai đối với các dự án phát triển, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông
thôn. Có chế tài cụ thể và đồng bộ để xử lý các trường hợp đã được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc chậm sử dụng. Kiên quyết thu hồi
đất của tổ chức, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp sử dụng đất không đúng mục
đích, nhất là tại các vị trí có lợi thế, khả năng sinh lợi cao, ngăn chặn thất
thoát vốn, tài sản nhà nước.
2.4. Hoàn thiện cơ chế xác định giá đất
Bỏ khung giá đất, có cơ chế, phương pháp xác định
giá đất theo nguyên tắc thị trường, quy định chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm
của cơ quan có nhiệm vụ xác định giá đất. Trung ương xây dựng tiêu chí và quy
trình kiểm tra, giám sát các địa phương trong việc xây dựng bảng giá đất. Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định và kiểm tra, giám sát việc thực hiện giá đất. Có
cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác định giá đất, bảo đảm tính độc
lập của hội đồng thẩm định giá đất, năng lực của tổ chức tư vấn xác định giá đất,
năng lực và đạo đức của các định giá viên. Bổ sung, hoàn thiện các quy định bảo
đảm công khai, minh bạch như: Công khai giá đất, bắt buộc giao dịch qua các sàn
giao dịch, thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt; xử lý nghiêm các vi
phạm...
2.5. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính
về đất đai
Chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài
hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; có cơ chế điều tiết
hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương
và địa phương; nghiên cứu có chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm
công khai, minh bạch. Rà soát chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất nông
nghiệp và đất phi nông nghiệp, xây dựng chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất
theo thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện cụ thể và lộ
trình thích hợp. Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện
tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang. Có chính
sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp với lĩnh vực, địa bàn
ưu đãi đầu tư; đối với hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình người có
công với cách mạng; những địa phương được quy hoạch sản xuất nhằm bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia, bảo vệ các loại rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng...
2.6. Hoàn thiện các quy định pháp luật có
liên quan đến thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất
Đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất. Xây dựng
hệ thống thông tin thị trường bất động sản gắn với thông tin đất đai; có chính
sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất, nhất là thị trường
cho thuê đất nông nghiệp. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và tăng cường thực hiện
thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch bất động sản. Có cơ chế bảo đảm
thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững; kiểm soát chặt
chẽ, khắc phục tình trạng đầu cơ đất đai.
2.7. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản
lý, sử dụng đất nông nghiệp
Mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng
đất nông nghiệp phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, địa phương, với
việc chuyển đổi nghề, việc làm, lao động ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi để
người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản xuất cây trồng, vật
nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch. Tăng cường quản
lý chất lượng đất, khắc phục tình trạng thoái hóa, suy giảm chất lượng đất.
Xây dựng quy định về ngân hàng cho thuê đất nông
nghiệp. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp và tổ chức thực hiện thu hồi đất
giao khoán không đầu tư từ các công ty nông, lâm nghiệp về địa phương quản lý
và thực hiện giao đất, cho thuê đất theo quy định, phù hợp với điều kiện của từng
địa phương, vùng, miền. Có chính sách phù hợp để ưu tiên giao đất cho đồng bào
dân tộc thiếu đất sản xuất, cùng với các cơ chế hiệu quả để ngăn chặn người dân
chuyển nhượng sau khi được giao đất.
2.8. Xây dựng các quy định pháp luật đối với
quản lý và sử dụng đất kết hợp đa mục đích
Bổ sung, hoàn thiện các quy định đối với quản lý, sử
dụng đất quốc phòng, an ninh trên cơ sở tổng kết việc thí điểm một số chính
sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an
ninh kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế. Bổ sung các quy định về đất ở kết
hợp với thương mại, dịch vụ; đất nông nghiệp kết hợp với thương mại, dịch vụ; đất
dự án du lịch có yếu tố tâm linh. Quy định chế độ sử dụng đất xây dựng công
trình trên không, công trình ngầm, đất hình thành từ hoạt động lấn biển.
3. Đẩy mạnh cải cách hành
chính, chuyển đổi số và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai
Đẩy mạnh chuyển đổi sổ trong lĩnh vực quản lý và sử
dụng đất; bố trí nguồn lực hợp lý để xây dựng, hoàn thiện đúng tiến độ hệ thống
thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; bảo đảm quản lý, vận hành, kết nối
và chia sẻ thông tin tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Thực
hiện đăng ký bắt buộc về quyền sử dụng đất và mọi biến động đất đai, đồng thời
có chế tài cụ thể, đồng bộ ngăn chặn các trường hợp giao dịch không đăng ký tại
cơ quan nhà nước.
Kiện toàn, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất
đai ở Trung ương và địa phương bảo đảm tinh gọn, ổn định, thống nhất, hiệu lực,
hiệu quả; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý đất đai. Đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền trong thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai, thống nhất quản lý theo hướng nâng cao trách nhiệm của địa phương và kiểm
tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ của Trung ương; giảm đầu mối, giảm trung
gian, gắn với cải cách hành chính, giảm phiền hà, tiêu cực. Tiếp tục hoàn thiện,
nâng cao năng lực các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai. Có cơ chế đầu
tư, chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ cán bộ,
công chức ngành quản lý đất đai; nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, đáp ứng
yêu cầu quản lý hiện đại.
Tập trung nguồn lực đầu tư cho công tác điều tra,
đánh giá tài nguyên đất; thống kê, kiểm kê đất đai; giám sát sử dụng đất; bảo vệ,
cải tạo và phục hồi chất lượng đất nhằm quản lý chặt chẽ về số lượng, chất lượng
đất phục vụ cho lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, làm cơ sở sử dụng đất bền
vững.
4. Đổi mới, tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo liên quan đến đất đai; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực
Đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng, thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát của Nhà nước trong việc xây dựng,
ban hành, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về đất đai; giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai; tăng cường phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực trong quản lý và sử dụng đất. Tăng cường kiểm soát quyền lực, thường
xuyên kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai, xử
lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai; siết chặt kỷ luật, kỷ
cương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai. Tiến hành kiểm
tra, thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của ngành, các cấp, thực
hiện phương châm giải quyết triệt để tranh chấp về đất đai từ cơ sở, tránh vượt
cấp lên Trung ương.
5. Tập trung giải quyết cơ bản
những hạn chế, khuyết điểm, vướng mắc kéo dài liên quan đến quản lý và sử dụng
đất
Tập trung nguồn lực đầu tư, chỉ đạo quyết liệt và
nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương trong
xử lý những hạn chế, khuyết điểm, vướng mắc về đất đai có nguồn gốc từ nông,
lâm trường quốc doanh; đất của các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời
khỏi trung tâm đô thị lớn; thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi sắp xếp lại
trụ sở, cơ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước để chuyển sang mục đích phát triển
kinh tế bảo đảm phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt;
đất thu hồi từ cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước; các loại đất được
sử dụng đa mục đích; giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu
số theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; những tồn tại, vướng mắc về quản lý và
sử dụng đất do lịch sử để lại.
6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân trong quản lý và sử dụng đất
Đổi mới hình thức, nội dung và đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật về đất đai cho cán bộ, đảng viên, người dân, doanh
nghiệp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, nhất là người đứng đầu tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về đất đai,
phải chịu trách nhiệm nếu để các tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi mình quản lý vi
phạm pháp luật, trục lợi, gây thất thoát, sử dụng lãng phí đất đai.
Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp và nhân
dân; phát hiện và phản ánh kịp thời những vướng mắc, bất cập, sai phạm trong
thi hành chính sách, pháp luật về đất đai để xử lý kịp thời, hiệu quả.
V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị
quyết; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, kịp thời, tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị.
2. Các tỉnh ủy, thành ủy; các ban đảng, ban
cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, học tập,
quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện Nghị quyết.
3. Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì, phối hợp
chặt chẽ với Đảng đoàn Quốc hội tổng kết việc thi hành Luật Đất đai năm 2013; sửa đổi Luật Đất đai năm 2013; đồng thời rà soát, hoàn
thiện các luật có liên quan bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, tạo cơ sở pháp lý
cho công tác triển khai thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện trong
phạm vi cả nước.
4. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo sửa đổi,
bổ sung các văn bản dưới luật; tổ chức triển khai các chương trình, kế hoạch, đề
án thực hiện Nghị quyết đồng bộ, hiệu quả; chấn chỉnh và tăng cường việc thực
thi pháp luật về đất đai, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật đất đai; theo dõi,
kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh phù hợp với yêu cầu thực tế, bảo đảm thực hiện
thắng lợi Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
5. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội, đẩy mạnh vận
động các tầng lớp nhân dân tích cực chấp hành và tham gia giám sát việc thực hiện
Nghị quyết và chính sách, pháp luật về đất đai.
6. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp
với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương thường
xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo
cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.
Nơi nhận:
- Các tỉnh ủy, thành ủy,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương,
- Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
- Các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|