Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Nghị quyết 159/NQ-HĐND về nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2014 do tỉnh Quảng Ninh ban hành

Số hiệu 159/NQ-HĐND
Ngày ban hành 16/07/2014
Ngày có hiệu lực 16/07/2014
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Quảng Ninh
Người ký Nguyễn Đức Long
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NINH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 159/NQ-HĐND

Quảng Ninh, ngày 16 tháng 7 năm 2014

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỐI NĂM 2014

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH
KHÓA XII - KỲ HỌP THỨ 15

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;

Sau khi xem xét Báo cáo số: 86/BC-UBND ngày 30/6/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2014; Báo cáo số 88/BC-UBND ngày 08/7/2014 về đề nghị sửa đổi, bãi bỏ một số nội dung của Nghị quyết số 62/2012/NQ-HĐND ngày 11/7/2012 của HĐND tỉnh, Công văn số 401/HĐND-PC ngày 11/7/2014 của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về việc hủy bỏ Nghị quyết số 74/2012/NQ-HĐND ngày 12/12/2012; Báo cáo thẩm tra của các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh và ý kiến thảo luận của các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Nhất trí với báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu 6 tháng cuối năm 2014. Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua và nhấn mạnh một số vấn đề chủ yếu sau đây:

I. Về thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm 2014

Trong 6 tháng đầu năm, các cấp, các ngành đã tích cực, chủ động bám sát các nội dung các Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, triển khai các giải pháp đã đề ra về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014; trọng tâm là triển khai thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược, đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng nhanh tỷ trọng ngành dịch vụ, do vậy, kinh tế - xã hội của Tỉnh đã phát triển đúng hướng, đạt nhiều kết quả tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng (GDP quý II tăng cao hơn 2,1 điểm % so với quý I, góp phần nâng mức tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm lên 6,9%, cao hơn cùng kỳ); sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục phục hồi và tăng trưởng khá; sản xuất nông nghiệp ổn định, kiểm soát tốt dịch bệnh; khu vực dịch vụ tiếp tục tăng trưởng cao đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng chung của tỉnh. Hoạt động của các doanh nghiệp trong nước đã có những tín hiệu tích cực cho thấy các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đã phát huy tác dụng; thu hút đầu tư FDI tăng 3,6 lần so với cùng kỳ và các doanh nghiệp FDI tăng trưởng, phát triển mở rộng, ngày càng có vai trò quan trọng. Mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch tích cực. Tiến độ thu ngân sách nhà nước cao hơn cùng kỳ các năm trước bằng 53% dự toán năm, tăng 22% so với cùng kỳ, đặc biệt là thu phí, lệ phí tăng cao. Các quy hoạch quan trọng của tỉnh và các địa phương được quan tâm đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Tỉnh được cải thiện đáng kể. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế, giá cả, thị trường ổn định. Đặc biệt Tỉnh đã tranh thủ tốt sự ủng hộ của Trung ương về nguồn lực và cơ chế, chính sách đặc thù để tạo động lực mới cho phát triển. Các công tác trọng tâm của Tỉnh được triển khai đồng bộ và đạt kết quả tốt, các công trình quan trọng của Tỉnh được đẩy nhanh tiến độ. Công tác an toàn giao thông, an sinh xã hội, giáo dục đào tạo, y tế, bảo vệ môi trường được quan tâm chỉ đạo. Quốc phòng an ninh được bảo đảm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí được tăng cường. Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp ở biển Đông, Tỉnh đã chủ động, nắm chắc tình hình, kịp thời chỉ đạo, triển khai các biện pháp cụ thể để động viên, hỗ trợ, bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn. Nhờ đó, đã tạo được niềm tin về một môi trường đầu tư an toàn, ổn định để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm, tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn còn một số hạn chế: Phục hồi kinh tế còn chậm; tăng trưởng kinh tế tuy cao hơn cùng kỳ (năm 2013 là 6,5%) nhưng vẫn thấp hơn so với mục tiêu đặt ra. Một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn gặp khó khăn, nhất là ngành than và các hoạt động thương mại biên giới, du lịch; sức mua của thị trường còn yếu, thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tiến độ lập quy hoạch, ngành, lĩnh vực, địa phương và triển khai một số dự án trọng điểm còn chậm so với kế hoạch. Ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ còn hạn chế. Việc ưu tiên nguồn lực của Nhà nước cho Quảng Ninh chưa tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao; giải ngân các nguồn vốn hỗ trợ Chương trình nông thôn mới chậm; Công tác quản lý đất đai, tài nguyên môi trường vẫn còn bất cập; Việc xây dựng Đề án “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đổi mới phương thức lãnh đạo; tinh giản bộ máy, biên chế” còn lúng túng, có nơi chưa thực hiện quyết liệt; Chất lượng nguồn nhân lực đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu nhân lực chất lượng cao, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa hợp lý. Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại, tai nạn giao thông, tai nạn lao động, khiếu nại, tố cáo của công dân còn tiềm ẩn phức tạp; Đời sống nhân dân, nhất là người nghèo khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn... Bên cạnh đó, những diễn biến ở Biển Đông liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương 981 đã ảnh hưởng không nhỏ đến đầu tư, đến hoạt động du lịch, dịch vụ thương mại, xuất khẩu trên địa bàn tỉnh.

II. Về nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2014

Trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần tập trung khắc phục khó khăn, thách thức; cụ thể hóa và thực hiện tốt, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các chỉ đạo, Nghị quyết của Trung ương và Chính phủ, nhất là các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 05/12/2013 của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 117/NQ-HĐND ngày 13/12/2013 của HĐND tỉnh “Về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014”, trong đó cần tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

1. Tổ chức triển khai thực hiện tốt các nhóm giải pháp của Trung ương và của tỉnh đã đề ra

- Tổ chức thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trọng điểm theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của tỉnh: Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 05/12/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Chỉ thị số 25-CT/TU ban hành ngày 28 tháng 02 năm 2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc triển khai thực hiện Kết luận 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 05/12/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh về nội dung "đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tinh giản bộ máy, biên chế"; Nghị quyết số 117/NQ-HĐND ngày 13/12/2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XII, kỳ họp thứ 11 và các chương trình, kế hoạch có liên quan về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014.

- Theo dõi sát diễn biến tình hình kinh tế thế giới, trong nước và tỉnh để kịp thời có biện pháp chỉ đạo, điều hành hiệu quả. Đồng thời, rà soát các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2014 đã đề ra, nhất là các chỉ tiêu kinh tế và thu ngân sách để có nhận định, đánh giá sát thực tế và có giải pháp tập trung chỉ đạo thực hiện, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ở mức cao nhất (với mức tăng trưởng GDP từ 8 - 9%; thu ngân sách trên địa bàn phấn đấu đạt trên 35.400 tỷ đồng).

- Hoàn thành dứt điểm việc lập các quy hoạch ở các ngành, các địa phương trong quý III/2014. Tổ chức công bố quy hoạch lồng ghép với chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh và các địa phương. Đồng thời lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực, dự án ưu tiên trong các quy hoạch để tổ chức triển khai thực hiện nhằm thu hút, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

- Tập trung triển khai thực hiện các nội dung chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Thông báo số 235/TB-VPCP ngày 18/6/2014 của Văn phòng Chính phủ về Kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh.

- Tiếp tục cụ thể hóa 07 nhóm cơ chế, chính sách theo Thông báo số 108-TB/TW ngày 01/10/2012 của Bộ Chính trị.

2. Tập trung đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng gắn với từng bước thực hiện tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng

- Đồng hành cùng doanh nghiệp: Tiếp tục thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin, tập trung rà soát, loại bỏ các rào cản, khó khăn, vướng mắc; cải cách hành chính theo thẩm quyền về thuế, phí, lệ phí, các thủ tục đăng ký kinh doanh, tín dụng, hải quan, bất động sản,… Thực hiện có hiệu quả Kế hoạch về triển khai thực hiện các giải pháp “Đồng hành cùng doanh nghiệp”, trong đó tập trung cập nhật các đề xuất, kiến nghị của từng doanh nghiệp để kịp thời hỗ trợ, giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp, đặc biệt là các đơn vị ngành than, các đơn vị kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu, kho ngoại quan; tạo điều kiện thông thoáng, linh hoạt nhất phục vụ lưu thông hàng hóa qua biên giới. Triển khai tốt các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự liên quan đến các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Tập trung xúc tiến đầu tư đối với các đối tác chiến lược ở trong và ngoài nước vào các khu kinh tế, khu công nghiệp, các ngành dịch vụ du lịch và sản xuất nông nghiệp, các ngành công nghệ cao...

- Về công nghiệp: Tạo điều kiện thuận lợi để các dự án trọng điểm công nghiệp ổn định đầu tư phát triển, sớm đi vào sản xuất. Tiếp tục rà soát, hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như than, đóng tàu, vật liệu xây dựng. Tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo có giá trị gia tăng cao phục vụ xuất khẩu; khuyến khích các tổ chức, cá nhân trên địa bàn sử dụng các sản phẩm xi măng, vật liệu xây dựng sản xuất trên địa bàn tỉnh nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, phát triển sản xuất. Tích cực kêu gọi tập đoàn điện lực AES (Mỹ) tiếp tục đầu tư nhà máy điện Mông Dương III tại những nơi đã được quy hoạch.

- Về các ngành dịch vụ: Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các ngành dịch vụ phát triển nhanh, có chất lượng cao; khẩn trương hoàn thành Đề án tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động dịch vụ trên vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và di tích lịch sử đặc biệt Yên Tử; tăng cường quảng bá ở đẳng cấp quốc tế, phát triển các sản phẩm độc đáo, đặc trưng, đảm bảo môi trường, mở rộng thị trường kinh doanh du lịch sang các nước có tiềm năng nhất là đối với Nhật Bản, Hàn Quốc nhằm từng bước giảm sự phụ thuộc vào thị trường khách Trung Quốc [1]. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại; phát triển sản phẩm thế mạnh của địa phương như sản phẩm nông nghiệp, du lịch đặc thù; tác động tích cực để đưa các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh vào các hệ thống phân phối hiện đại nhất là trong 2 siêu thị lớn như Big C và Metro. Thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường kiểm soát, bình ổn thị trường, giá cả, phòng chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại.

- Về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: Thực hiện chuyển đổi phương thức sản xuất hướng tới quy mô lớn gắn với ứng dụng khoa học kỹ thuật; triển khai các mô hình sản xuất tập trung, chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm”, quản lý tốt thương hiệu sản phẩm và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm; tăng cường khuyến nông, chủ động ứng phó với dịch bệnh, phòng chống thiên tai trong mùa mưa bão. Tập trung hoàn thành và nâng cao hiệu quả giải ngân vốn đầu tư xây dựng nông thôn mới. Kêu gọi đầu tư vào Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại huyện Đông Triều. Quan tâm xây dựng chính sách hỗ trợ ngư dân đầu tư phương tiện khai thác và các dịch vụ trên biển. Hoàn thiện các đề án, cơ chế, chính sách để tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển nông nghiệp, nông thôn mới[2], nâng cao chất lượng sống khu vực nông thôn, phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp; nâng cao chất lượng thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới bền vững

3. Huy động mọi nguồn lực, tập trung quản lý, đầu tư các dự án, công trình động lực, tạo sức lan tỏa, đẩy nhanh áp dụng các hình thức đầu tư để giảm áp lực cho ngân sách nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư công

- Đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư của tỉnh; Đề án thúc đẩy hợp tác, thu hút đầu tư từ Nhật Bản vào Tỉnh; làm tốt công tác thu hút đầu tư, đặc biệt chú trọng đến các nhà đầu tư chiến lược nhằm tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội; có các biện pháp đồng bộ để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài ODA, FDI và các hình thức đầu tư khác; quyết tâm triển khai có hiệu quả hình thức đầu tư PPP[3] đối với các dự án, công trình thuộc diện hợp tác công - tư đã được UBND tỉnh phê duyệt và tập trung xúc tiến đầu tư xây dựng sân bay Vân Đồn và các cảng du lịch, bến du thuyền...

- Tập trung chỉ đạo đẩy nhanh việc giải ngân vốn đầu tư công, nhất là đối với các công trình xây dựng cơ bản. Tăng cường chấn chỉnh công tác điều hành, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

- Tiếp tục rà soát các dự án chậm tiến độ, vi phạm, cương quyết thu hồi và giao cho các chủ đầu tư có năng lực thực hiện; triển khai đồng bộ các biện pháp trong quản lý đất đai, tập trung kiểm tra việc sử dụng đất của các đơn vị ngành than và các doanh nghiệp có sử dụng nhiều diện tích đất để tăng cường quản lý nhà nước và tăng thu ngân sách.

4. Về quản lý thu chi ngân sách, hoạt động ngân hàng và kiểm soát giá cả bảo đảm đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

[...]