CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
05/2001/NQ-CP
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2001
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 05/2001/NQ-CP NGÀY 24 THÁNG 5 NĂM 2001VỀ VIỆC
BỔ SUNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH KINH TẾ NĂM 2001
Tình hình kinh tế 4 tháng đầu
năm 2001 có những chuyển biến tích cực và có nhiều mặt được cải thiện hơn so với
cùng kỳ năm trước; nhưng cũng còn nhiều khó khăn, tác động không thuận lợi đến
việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm nay và các năm sau.
Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp
tăng khá nhanh về số lượng, nhưng chi phí sản xuất cao, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh còn thấp, xuất khẩu gặp khó khăn do giá cả xuất khẩu nhiều mặt hàng, nhất
là nông sản giảm sút. Vốn đầu tư toàn xã hội đạt thấp, đặc biệt là vốn đầu tư
xây dựng cơ bản tập trung thuộc Ngân sách Nhà nước và vốn tín dụng đầu tư nhà
nước. Giá cả thị trường diễn biến theo chiều hướng giảm sút mạnh ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân. Xu thế kinh tế thế giới và khu vực
diễn biến có chiều hướng bất lợi, ảnh hưởng xấu đến kinh tế nước ta, nhất là xuất
khẩu.
Để khắc phục những tồn tại, hạn
chế trên đây, nhằm hoàn thành tốt các mục tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2001 và tạo đà cho sự phát triển các năm sau, Chính phủ bổ sung một
số giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế năm 2001 như sau:
1. Thực hiện việc
miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 2001 cho các đối tượng sau đây:
a) Miễn thuế cho tất cả các hộ
nghèo trong cả nước (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số
1143/2000/QĐ/LĐTB&XH ngày 01 tháng 11 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội) và cho tất cả các hộ trong các xã thuộc Chương trình
135.
b) Giảm 50% thuế đối với đất trồng
lúa và trồng cà phê của các tổ chức, cá nhân và các hộ gia đình khác còn lại.
Ngân sách Trung ương cấp bù cho
ngân sách địa phương khoản hụt thu do thực hiện chính sách miễn, giảm thuế nói
trên.
2. Kéo dài thêm
6 tháng thời gian tạm trữ 1 triệu tấn gạo xuất khẩu quy định tại Quyết định số
223/QĐ-TTg ngày 06 tháng 3 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ. Các doanh nghiệp
được giao nhiệm vụ mua tạm trữ có trách nhiệm tìm thị trường xuất khẩu số gạo tạm
trữ và tiếp tục mua vào để bổ sung cho phần đã xuất khẩu trong thời gian tạm trữ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Thương mại, Uỷ ban nhân dân các tỉnh có trách nhiệm đôn đốc, kiểm
tra việc thực hiện chủ trương mua tạm trữ nói trên, ngăn ngừa các hiện tượng
tiêu cực, bảo đảm cho nông dân không bị thua thiệt.
3. Thực hiện một
bước việc chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp:
a) Uỷ ban nhân dân các tỉnh khẩn
trương hoàn thành công tác quy hoạch, đồng thời thực hiện ngay một số giải pháp
chuyển đổi cơ cấu sau đây:
- Giảm diện tích lúa hè thu ở đồng
bằng sông Cửu Long và ở những nơi sản xuất không có hiệu quả để chuyển sang sản
xuất các loại cây trồng, vật nuôi khác có hiệu quả hơn và có thị trường tiêu thụ.
- Quy hoạch và đầu tư phát triển
các vùng nuôi trồng thuỷ sản, nhất là ở các vùng ven biển. Nhà nước sẽ hỗ trợ đầu
tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thuỷ lợi cho các vùng này.
- Không trồng mới cà phê vối;
chuyển một phần diện tích đang trồng cà phê vối sang trồng cà phê chè ở những
nơi có điều kiện.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Thuỷ sản có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương thực hiện
quá trình chuyển dịch nói trên.
b) Giao Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ trong Quý III năm 2001 các
đề án phát triển nuôi trồng các cây, con có thị trường tiêu thụ thuận lợi :
ngô, đậu tương, bông, dâu tằm, thuốc lá, dầu ăn, bò sữa, lợn; đề án phát triển
công nghệ sau thu hoạch đối với lúa, cà phê... và đề án về chính sách khuyến
khích phát triển ngành, nghề ở nông thôn.
4. Về giống cây
trồng, vật nuôi :
a) Bổ sung vốn để phát triển các
trung tâm giống, đảm bảo các điều kiện cơ bản để chọn lọc, lai tạo, nhân giống
và nhập khẩu giống các loại cây, con có năng suất, chất lượng và giá trị thương
phẩm cao.
b) Bổ sung 50 tỷ đồng để hỗ trợ
một lần cho nông dân về giống cây trồng, vật nuôi.
c) Trong tháng 6 năm 2001, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ về nhu cầu bổ sung vốn đầu tư trong năm
2001 cho các mục tiêu trên; đồng thời, phải sớm hoàn thiện đề án "Chương
trình công nghệ sinh học" để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
5. Khuyến khích
thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu tất cả các loại
hàng hóa mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đã đăng ký kinh
doanh.
Sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu
theo Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính
phủ, để hỗ trợ các doanh nghiệp và các hiệp hội trong hoạt động phát triển thị
trường, đẩy mạnh xúc tiến thương mại như hỗ trợ một phần chi phí đi lại để tìm
kiếm thị trường, tổ chức các gian hàng hội chợ, triển lãm, lập kho hàng, đặt
văn phòng đại diện và các trung tâm xúc tiến thương mại tại nước ngoài...
Bộ Tài chính thống nhất với Bộ
Thương mại trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6 năm 2001 cơ chế thực hiện
các quy định trên cũng như việc điều chỉnh, bổ sung Quy chế chi hoa hồng trong
môi giới thương mại theo hướng mở rộng quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh
nghiệp nhà nước trong việc quyết định các hình thức và mức chi hoa hồng, đối tượng
được hưởng hoa hồng, hình thức hạch toán các khoản chi hoa hồng... cho phù hợp
với đặc điểm của từng đối tác giao dịch và bảo đảm hiệu quả kinh doanh chung của
doanh nghiệp.
Khuyến khích các cơ quan đại diện
ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài (kể cả đại diện thương mại) thực hiện môi
giới xuất khẩu và được hưởng hoa hồng theo quy định nêu trên.
6. Ngoài chế độ
thưởng xuất khẩu theo Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 1999 của
Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2001, thực hiện thêm chế độ thưởng theo kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng: gạo, cà phê, rau quả hộp và thịt lợn (không kể lượng
hàng hoá được xuất khẩu theo hiệp định của Chính phủ và xuất khẩu trả nợ) cho tất
cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đối với một số mặt hàng xuất
khẩu khác, trong thời gian tới nếu gặp khó khăn khách quan như các mặt hàng
trên, cũng có thể được xem xét để áp dụng chế độ thưởng này.
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Vật giá Chính phủ và các Bộ,
ngành liên quan quyết định mức thưởng cụ thể đối với từng mặt hàng, công bố
công khai ngay trong tháng 6 năm 2001 và tổ chức thực hiện.
7. Bộ Tài chính
sớm hoàn chỉnh Quy chế hoạt động của Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành trong tháng 6 năm 2001, để làm căn cứ cho vay ưu đãi và bảo
lãnh tín dụng xuất khẩu (kể cả tín dụng xuất khẩu trả chậm đến 720 ngày).
8. Đối với đầu
tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước, theo kế hoạch đã phê duyệt,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung
tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ xây dựng công trình theo kế hoạch. Phải rà
soát, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư một cách chặt chẽ trước
khi giao phần vốn còn lại của kế hoạch năm 2001. Kiên quyết chuyển vốn của các
công trình chưa đủ thủ tục, các công trình không có khả năng sử dụng hết vốn
theo kế hoạch, các công trình chưa có điều kiện khởi công để cấp cho các công
trình, dự án cần phải hoàn thành trong năm 2001 và các dự án ODA còn thiếu vốn
đối ứng.
9. Các Bộ,
ngành, địa phương khẩn trương kiểm tra, xác định cụ thể khối lượng xây dựng cơ
bản các công trình trong kế hoạch thuộc Ngân sách Nhà nước cấp vốn đến nay còn
nợ, nhưng chưa có nguồn thanh toán, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính
trong tháng 6 năm 2001 để các Bộ tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
biện pháp xử lý.
10. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính
phủ trong tháng 6 năm 2001 phương án bổ sung vốn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng thuộc Chương trình Xoá đói giảm nghèo, Chương trình 135, Chương trình Kiên
cố hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn, Chương trình Phát triển nuôi trồng
thuỷ sản; các công trình giao thông, thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng du lịch (kể cả tôn
tạo, tu sửa các di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng), cơ sở hạ tầng làng
nghề; các công trình quan trọng cần hoàn thành trong năm 2001; các công trình
quan trọng cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng; chuẩn bị đầu tư và khởi công một số
công trình quan trọng đã được phê duyệt nhưng chưa có vốn bố trí từ đầu năm.
Riêng đối với Chương trình 135,
ngoài số vốn bổ sung cho các dự án thuộc Chương trình như đã nêu trên, bổ sung
thêm khoảng 200 tỷ đồng đến 300 tỷ đồng hỗ trợ cho xây dựng các đường giao
thông liên xã ở các xã khó khăn thuộc khu vực biên giới.
Quỹ Hỗ trợ phát triển cho ngân
sách địa phương tạm vay với lãi suất 0% để thực hiện các dự án về kiên cố hóa
kênh mương, đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản và cơ
sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn.
11. Lãi suất
tín dụng của nhà nước được điều chỉnh như sau :
a) Lãi suất tín dụng đầu tư phát
triển nhà nước là 5,4%/năm.
Các đối tượng đang được hưởng
lãi suất ưu đãi đặc biệt theo điểm 5 Nghị quyết số 11/2000/NQ-CP ngày 31 tháng
7 năm 2000 của Chính phủ, Quyết định số 117/2000/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm
2000, Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 4 năm 2001 của Thủ tướng Chính
phủ và công văn số 485/CP-CN ngày 18 tháng 5 năm 2000 của Chính phủ từ nay sẽ
được áp dụng thống nhất một mức lãi suất chung là 3%/năm.
b) Lãi suất cho vay của Ngân
hàng phục vụ người nghèo đối với khu vực III là 5,4%/năm và đối với các khu vực
khác là 6%/năm.
Các mức lãi suất tại các điểm a,
b trên đây được tính cho các khoản vay giải ngân kể từ ngày 01 tháng 6 năm
2001.
12. Đối với
các dự án của chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp nhà nước nếu sử dụng vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thì chủ đầu tư tự quyết định đầu tư sau
khi được cơ quan cho vay thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và chấp
thuận cho vay; chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm về thiết kế, dự toán và tổ chức
thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, địa phương, lãnh thổ. Tổ
chức cho vay giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án và thu hồi nợ vay theo hợp đồng
tín dụng đã ký. Trường hợp các dự án trên có nhu cầu sử dụng đất thì Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải căn cứ vào đề nghị của
chủ đầu tư và quy hoạch sử dụng đất của địa phương để làm thủ tục giao đất hoặc
cho thuê đất theo quy định của pháp luật mà không kèm theo bất kỳ một điều kiện
gì khác. Đối với các chủ đầu tư đã được giao đất (đã nộp tiền sử dụng đất) khi
thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh, không phải chuyển sang thuê đất.
13. Đối với những
dự án được Qũy Hỗ trợ phát triển bảo lãnh thì không nhất thiết phải có tài sản
thế chấp. Quỹ Hỗ trợ phát triển phối hợp với tổ chức cho vay thẩm định phương
án vay, trả nợ để quyết định việc bảo lãnh và cùng chia sẻ trách nhiệm với tổ
chức cho vay trong việc xử lý rủi ro. Thủ tục xét duyệt bảo lãnh phải hết sức
đơn giản, thuận tiện.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6
năm 2001 đề án về các hình thức bảo lãnh tín dụng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
14. Đẩy nhanh
quá trình tổ chức lại các ngân hàng thương mại. Nhà nước hỗ trợ vốn để xử lý
các khoản nợ giai đoạn 2 và các khoản nợ do nguyên nhân khách quan không có khả
năng hoàn trả. Đồng thời có biện pháp lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng
cao chất lượng tín dụng và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Mở
rộng việc cho vay để xây dựng nhà ở, mua các động sản có giá trị cao. Bổ sung vốn
Điều lệ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo.
15. Từ năm
2001, thực hiện mức thu sử dụng vốn thống nhất theo tỷ lệ 0,15%/tháng đối với vốn
nhà nước có tại doanh nghiệp. Giao Bộ Tài chính hướng dẫn và tổ chức thực hiện.
16. Nghị quyết
này có hiệu lực kể từ ngày ký. Các quy định trước đây trái với Nghị quyết này đều
bãi bỏ.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị
quyết này.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, tổng hợp
tình hình thực hiện Nghị quyết, hàng tháng báo cáo Chính phủ.