Nghị định 64-HĐBT năm 1989 Quy định chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Số hiệu | 64-HĐBT |
Ngày ban hành | 10/06/1989 |
Ngày có hiệu lực | 10/06/1989 |
Loại văn bản | Nghị định |
Cơ quan ban hành | Hội đồng Bộ trưởng |
Người ký | Võ Văn Kiệt |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp,Xuất nhập khẩu |
HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 64-HĐBT |
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 1989 |
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng trong phiên họp ngày 15 tháng 3 năm
1989;
Để thực hiện một bước đổi mới chế độ và tổ chức quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại,
NGHỊ ĐỊNH:
|
Võ Văn Kiệt (Đã ký) |
VỀ CHẾ ĐỘ VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP
KHẨU
(Ban hành kèm theo Nghị định số 64-HĐBT ngày 10-6-1989 của Hội đồng Bộ
trưởng)
Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển có hiệu quả; Hội đồng Bộ trưởng qui định chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như sau:
1. Về lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.
a) Xuất nhập khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế.
b) Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư, phụ tùng cho sản xuất.
c) Tái xuất, tái nhập, chuyển khẩu.
d) Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác xuất, nhập khẩu cho các tổ chức kinh tế nước ngoài.
e) Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài.
Việc xuất nhập khẩu hàng hoá tiểu ngạch giữa các tỉnh biên giới nước ta với các nước láng giềng có qui định riêng.
2. Về đối tượng kinh doanh xuất nhập khẩu.
HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 64-HĐBT |
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 1989 |
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng trong phiên họp ngày 15 tháng 3 năm
1989;
Để thực hiện một bước đổi mới chế độ và tổ chức quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại,
NGHỊ ĐỊNH:
|
Võ Văn Kiệt (Đã ký) |
VỀ CHẾ ĐỘ VÀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP
KHẨU
(Ban hành kèm theo Nghị định số 64-HĐBT ngày 10-6-1989 của Hội đồng Bộ
trưởng)
Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển có hiệu quả; Hội đồng Bộ trưởng qui định chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như sau:
1. Về lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.
a) Xuất nhập khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế.
b) Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư, phụ tùng cho sản xuất.
c) Tái xuất, tái nhập, chuyển khẩu.
d) Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác xuất, nhập khẩu cho các tổ chức kinh tế nước ngoài.
e) Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài.
Việc xuất nhập khẩu hàng hoá tiểu ngạch giữa các tỉnh biên giới nước ta với các nước láng giềng có qui định riêng.
2. Về đối tượng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đối tượng kinh doanh xuất nhập khẩu nói trong Qui định này bao gồm các cơ sở sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu, các tổ chức dịch vụ xuất nhập khẩu và các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu chuyên nghiệp thuộc các cấp quản lý.
II. CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
1. Nhà nước khuyến khích các xí nghiệp sản xuất công nghiệp quốc doanh phát triển sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Các xí nghiệp có sản phẩm xuất khẩu hoặc không có sản phẩm xuất khẩu nhưng được nhập khẩu đều được bảo đảm quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ theo chính sách và cơ chế xuất, nhập khẩu của Nhà nước.
Các xí nghiệp sản xuất chế biến hàng xuất khẩu theo chỉ tiêu kế hoạch hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước được Nhà nước chỉ định các tổ chức kinh doanh vật tư và tổ chức xuất nhập khẩu bán vật tư theo định mức kinh tế kỹ thuật và mua sản phẩm theo hợp đồng kinh tế, được hưởng chế độ khuyến khích đối với hàng xuất khẩu.
2. Các công ty công tư hợp doanh hoặc hợp tác xã sản xuất chế biến hàng xuất khẩu được tuỳ ý chọn tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước để uỷ thác xuất sản phẩm, nhập vật tư theo các điều kiện thoả thuận trong hợp đồng kinh tế. Trong trường hợp này có quyền tham gia đàm phán với khách hàng trong và ngoài nước; được bán sản phẩm, mua vật tư hàng hoá theo hợp đồng kinh tế với tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước; được tự nguyện ra nhập các tổ chức liên doanh, liên kết sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng hợp đồng kinh tế hoặc qui chế của các tổ chức liên doanh, liên kết; được liên doanh với Việt kiều hoặc người nước ngoài để sản xuất hoặc gia công hàng xuất khẩu theo Luật Đầu tư.
3. Các cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc kinh tế cá thể, tư doanh được tuỳ ý chọn tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước để uỷ thác xuất sản phẩm, nhập vật tư theo các điều kiện thoả thuận trong hợp đồng kinh tế, và trong trường hợp này, có quyền tham gia đàm phán với khách hàng trong và ngoài nước, bán sản phẩm, mua vật tư hàng hoá theo hợp đồng kinh tế với tổ chức xuất, nhập khẩu của Nhà nước; gia công hàng xuất khẩu với tổ chức xuất nhập khẩu của Nhà nước; được tự nguyện ra nhập các tổ chức liên doanh, liên kết sản suất hàng xuất khẩu; được chung vốn với các tổ chức kinh tế Nhà nước thành bên Việt Nam để liên doanh với Việt kiều hoặc người nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu theo Luật Đầu tư.
Quyền trực tiếp xuất, nhập khẩu của các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế nói trên được qui định tại điều 19 và điều 20 của bản qui định này.
Hàng năm, Nhà nước công bố danh mục các mặt hàng cấm xuất và cấm nhập. Bộ Kinh tế đối ngoại hướng dẫn các cơ sở kinh doanh xuất, nhập khẩu thực hiện đúng các chính sách về mặt hàng.
Các tổ chức kinh tế sẽ dùng tiền Việt Nam để mua lại những vật tư hàng hoá thiết bị cần thiết cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập, khẩu.
Hàng năm, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính có trách nhiệm cân đối đủ tiền Việt Nam để thanh toán hàng xuất khẩu trong Nghị định thư và vật tư hàng hoá cần thiết để bán cho các đơn vị sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu theo Nghị định thư. Giá mua hàng xuất khẩu theo Nghị định thư phải thật sự là giá thoả thuận giữa các công ty kinh doanh xuất, nhập khẩu với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu; việc thanh toán phải bảo đảm sòng phẳng, kịp thời. Nếu việc thanh toán quá thời hạn quy định thì các cơ sở sản xuất và các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ được trả một khoản tiền lãi theo tỷ lệ lãi xuất vay Ngân hàng trên toàn bộ số vốn và thời hạn chậm thanh toán.
b) Đối với việc xuất khẩu hàng hoá ngoài Nghị định thư hoặc sang các nước ngoài xã hội chủ nghĩa thì các tổ chức kinh doanh tự chịu trách nhiệm thực hiện và thanh toán hợp đồng với các tổ chức hữu quan của nước ngoài.
c) Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1989, bãi bỏ chế độ kết hối ngoại tệ, thực hiện cơ chế mua bán ngoại tệ theo tỉ giá kinh doanh. Bộ Tài chính cùng Bộ Kinh tế đối ngoại hướng dẫn cụ thể việc Nhà nước mua ngoại tệ theo cơ chế sẽ nói sau đây đối với các khoản ngoại tệ mà các đơn vị xuất khẩu thu được từ ngày 1 tháng 1 năm 1989 đến nay.
Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn và quy định tỷ lệ ngoại tệ bán nghĩa vụ cho Nhà nước thích hợp với từng ngành hàng. Số ngoại tệ bán nghĩa vụ này chỉ được chuyển quyền sở hữu sau khi các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu đã được thanh toán bằng tiền Việt Nam.
Bộ Kinh tế đối ngoại và các cơ quan chức năng có trách nhiệm quản lý thị trường, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, nâng giá mua hàng xuất khẩu.
Bộ Kinh tế đối ngoại, các Liên đoàn, các Hiệp hội xuất, nhập khẩu hướng dẫn thị trường, giá cả để đạt được giá xuất và giá nhập có lợi nhất, không can thiệp vào quyền tự quyết định giá của các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất, nhập khẩu do hai bên chủ hàng và khách hàng tự chịu trách nhiệm qua hợp đồng (tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu được quyền tự kiểm tra chất lượng hoặc thuê tổ chức kiểm tra chất lượng khác làm dịch vụ).
Cơ quan Nhà nước có chức năng kiểm tra chất lượng có quyền thu hồi giấy phép về tự kiểm tra hàng xuất khẩu đối với tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu được tự kiểm tra mà không làm đúng chức trách của mình. Bộ Kinh tế đối ngoại có quyền thu hồi giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu đối với các cơ sở sản xuất và kinh doanh xuất, nhập khẩu không bảo đảm đúng chất lượng hàng hoá xuất, nhập khẩu đã cam kết với khách hàng.
Về giao nhận hàng xuất, nhập khẩu, các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu chọn lựa phương thức có lợi nhất, có quyền tự lo liệu hoặc trực tiếp uỷ thác cho các hãng tàu, các tổ chức giao nhận trong nước cũng như ngoài nước về giao nhận vận tải.
Đối với hàng hoá xuất khẩu, hai bên chủ hàng và khách hàng tự chịu trách nhiệm thông qua hợp đồng giữa hai bên, theo đúng luật lệ quốc tế về kiểm dịch. Nếu khách hàng có yêu cầu, tổ chức kiểm dịch của nước ta làm dịch vụ cho khách hàng.
Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ngoài Nghị định thư phải có giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu từng chuyến hàng do Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm, có thể uỷ quyền cho người thay mặt mình ký cấp giấy phép.
Đối với các mặt hàng có trong danh mục hàng xuất khẩu theo Nghị định thư, chỉ cấp giấy phép xuất khẩu ngoài Nghị định thư theo từng chuyến hàng hay từng hợp đồng trên cơ sở cam kết bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đã ký kết trong Nghị định thư.
Tổ chức hải quan cửa khẩu có trách nhiệm giải quyết nhanh các thủ tục, phải đền bù thiệt hại nếu do khuyết điểm của hải quan gây ra.
III. TỔ CHỨC KINH DOANH XUẤT, NHẬP KHẨU
Các cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế tập thể, công tư hợp doanh, tư doanh và cá thể được khuyến khích sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu; được tuỳ ý lựa chọn tổ chức xuất, nhập khẩu quốc doanh để uỷ thác bán hàng xuất khẩu theo giá cả thoả thuận; hoặc được xét cấp giấy phép xuất, nhập khẩu trực tiếp thường xuyên hay từng chuyến nếu có đủ những điều kiện theo quy định của Bộ Kinh tế đối ngoại. Các cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu thuộc các thành phần kinh tế này cũng được xét cấp giấy phép đi tham quan, khảo sát, nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm, v.v... trên cơ sở tự trang trải các khoản chi phí.
Bộ Kinh tế đối ngoại có trách nhiệm phối hợp với các ngành liên quan xây dựng Điều lệ mẫu về tổ chức Liên đoàn, Hiệp hội kinh doanh xuất, nhập khẩu, hướng dẫn thành lập và cấp giấy phép công nhận các tổ chức này.
Các tổ chức kinh tế này có quyền:
- Lựa chọn các hình thức kinh doanh với nước ngoài, ký kết và thực hiện các hợp đồng trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh doanh, theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Thông qua các hình thức liên doanh và hợp tác kinh tế (kể cả với quốc doanh) để gắn kinh doanh xuất, nhập khẩu với sản xuất và được sử dụng vật tư, hàng hoá nhập khẩu bằng nguồn vốn do mình tạo ra, để đầu tư vào sản xuất, tạo nguồn hàng xuất khẩu.
- Thực hiện các phương thức mua, bán ở trong nước theo đúng các luật lệ thương nghiệp nội địa, các quy định về quản lý thị trường và giá cả.
- Được nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu theo danh mục mặt hàng được phép kinh doanh xuất, nhập khẩu.
- Nếu có yêu cầu và tự trang trải mọi chi phí thì được phép đi tham quan, khảo sát, nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm, v.v... ở nước ngoài.
Các Công ty, Tổng công ty xuất, nhập khẩu hiện đang kinh doanh cần phải làm lại đầy đủ các thủ tục cần thiết theo sự hướng dẫn của Bộ Kinh tế đối ngoại để Bộ xem xét, cấp giấy phép hoạt động:
IV. TỔ CHỨC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Điều 25. - Về xuất khẩu và nhập khẩu, Bộ Kinh tế đối ngoại có nhiệm quản lý Nhà nước như sau:
- Phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các ngành liên quan nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định chiến lược, chương trình, mục tiêu, quy hoạch và kế hoạch xuất nhập khẩu, phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách, cơ chế quản lý các hoạt động xuất, nhập khẩu, ban hành theo thẩm quyền được giao các chế độ, thể lệ, nhằm cụ thể hoá và thực hiện các chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý đã được cấp có thẩm quyền ban hành.
- Có quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện đường lối chính sách, kế hoạch, pháp luật và cơ chế quản lý về xuất, nhập khẩu.
- Hướng dẫn về nghiệp vụ kinh doanh xuất, nhập khẩu, tổ chức thông tin kinh tế về thị trường, giá cả liên quan đến các hoạt động xuất, nhập khẩu.
- Xét duyệt hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo kế hoạch (trừ hàng phi mậu dịch); đồng thời chịu trách nhiệm quản lý chế độ cấp hạn ngạch và giấy phép xuất, nhập khẩu.
- Xét và cho phép các tổ chức kinh tế nước ngoài cử đại diện hoặc lập Văn phòng tại Việt Nam.
- Xây dựng quy hoạch và tiêu chuẩn, tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý và kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các ngành, các địa phương và các tổ chức kinh doanh.
- Tổ chức kiểm tra, thanh tra các hoạt động xuất, nhập khẩu, xử lý những vi phạm các quy định của Nhà nước về xuất, nhập khẩu, kể cả việc mua bán và hoạt động ở thị trường nước ngoài.
- Phối hợp với các Bộ, các ngành có chức năng quản lý Nhà nước để thống nhất quản lý Nhà nước các hoạt động xuất, nhập khẩu và tổng hợp trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giải quyết các vấn đề có liên quan tới nhiều ngành hoặc ngoài phạm vi thẩm quyền của Bộ Kinh tế đối ngoại.
- Báo cáo về các hoạt động xuất, nhập khẩu.
Tại các Bộ, tuỳ theo tình hình cụ thể mà hình thành một bộ phận chuyên trách các hoạt động kinh tế đối ngoại để làm tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý các hoạt động về hợp tác đầu tư với nước ngoài và hoạt động xuất, nhập khẩu.
Tại các thành phố, tỉnh, đặc khu trực thuộc, tuỳ theo tình hình cụ thể mà có Sở kinh tế đối ngoại (hoặc Ban kinh tế đối ngoại) nằm trong Uỷ ban Nhân dân, với biên chế gọn, nhẹ, bao gồm những cán bộ có năng lực để giúp Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn lãnh thổ theo sự phân cấp của Nhà nước.
Các tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất, nhập khẩu chịu sự kiểm tra, kiểm soát của hệ thống quản lý Nhà nước về xuất, nhập khẩu. Các Sở hoặc Ban Kinh tế đối ngoại nói trên không phải là cơ quan chủ quản cấp trên của các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu, các cấp quản lý hành chính Nhà nước không được can thiệp vào hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu của các tổ chức đó.