Nghị định 63-CP năm 1993 về việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng

Số hiệu 63-CP
Ngày ban hành 24/09/1993
Ngày có hiệu lực 24/09/1993
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Phan Văn Khải
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Thương mại

CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 63-CP

Ngày, ngày 24 tháng 9 năm 1993

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 63-CP NGÀY 24-9-1993 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀNG 

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 24 tháng 5 năm 1990;
Theo đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1.- Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp về vàng của mọi tổ chức và cá nhân dưới dạng vàng khối, vàng thỏi, vàng cục, vàng cốm, vàng lá, vàng sa khoáng, vàng gốc, vàng tư trang.

Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền cất giữ, vận chuyển hoặc gửi vàng ở Ngân hàng.

Điều 2.- Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động gia công, chế tác, cầm đồ, mua bán, xuất nhập khẩu vàng; cùng các Bộ, ngành liên quan và các địa phương thực hiện việc quản lý thị trường vàng trong cả nước.

Điều 3.- Các tổ chức và cá nhân muốn kinh doanh vàng phải thành lập doanh nghiệp, hoặc đăng ký kinh doanh.

Các doanh nghiệp muốn kinh doanh vàng phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh. Ngoài việc thực hiện các quy định về thành lập theo pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước, Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp còn phải có các điều kiện sau đây:

a) Có vốn pháp định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đối với từng loại doanh nghiệp và từng vùng;

b) Có thợ chuyên môn kỹ thuật;

c) Có trụ sở (cửa hàng), địa chỉ rõ ràng.

Đối với những cá nhân có kỹ thuật và tay nghề cao muốn hành nghề: gia công, chế tác (kim hoàn) thì Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét cho phép.

Điều 4.- Các doanh nghiệp kinh doanh vàng được mua bán vàng khối, vàng thỏi, vàng cục, vàng cốm, vàng lá, vàng sa khoáng, vàng gốc, vàng tư trang; được chế tác, gia công, cầm đồ vàng.

Điều 5.- Việc nhập khẩu vàng do Ngân hàng Nhà nước thực hiện.

Các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn xuất khẩu vàng phải có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.

Người Việt Nam và người nước ngoài khi xuất, nhập cảnh có mang theo tư trang bằng vàng phải thực hiện đúng quy định của Điều lệ Quản lý ngoại hối của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.

Điều 6.- Các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh vàng phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chấp hành các quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan, kể cả nộp thuế theo luật định.

Điều 7.- Chậm nhất sau 20 ngày kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài chính cùng các cơ quan hữu quan có trách nhiệm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Điều 8.- Sau khi có hướng dẫn của các ngành, trong vòng 60 ngày các doanh nghiệp phải thực hiện việc đăng ký lại theo quy định của Nghị định này. Mọi hoạt động kinh doanh vàng trái với Nghị định này đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 9.- Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 38-CP ngày 9-2-1979 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lý vàng, bạc, bạch kim, kim cương đối với các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước; Quyết định số 39-CP ngày 9-2-1979 của Hội đồng Chính phủ về việc Nhà nước thống nhất quản lý vàng, bạc, bạch kim và kim cương và Quyết định số 139-CT ngày 24-5-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về cho phép các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể, hộ kinh tế cá thể kinh doanh vàng, bạc, đá quý.

Điều 10.- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

Phan Văn Khải

(Đã ký)