NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 07/2000/NĐ-CP NGÀY 09 THÁNG 3 NĂM 2000 VỀ
CHÍNH SÁCH CỨU TRỢ XÃ HỘI
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Ngân sách Nhà nước ngày 20 tháng 3 năm 1996;
Căn cứ Pháp lệnh phòng chống bão lụt ngày 08 tháng 3 năm 1993;
Căn cứ Pháp lệnh về người tàn tật ngày 30 tháng 7 năm 1998;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
NGHỊ ĐỊNH :
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
Nghị định này quy định một số chính sách và chế độ cứu trợ xã hội nhằm hỗ trợ,
giúp đỡ về vật chất, tinh thần cho người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật
nặng, người gặp rủi ro do thiên tai và những lý do bất khả kháng khác mà bản
thân họ và người thân của họ không thể tự khắc phục được (sau đây gọi chung là
người thuộc diện cứu trợ xã hội).
Điều 2.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài tự nguyện giúp đỡ Người thuộc diện cứu trợ xã hội.
Điều 3.
Việc cứu trợ xã hội chủ yếu được thực hiện tại gia đình và tại cộng đồng - nơi
người thuộc diện cứu trợ xã hội cư trú. Việc hỗ trợ nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo
trợ xã hội chỉ áp dụng cho người cô đơn không nơi nương tựa hoặc đặc biệt khó
khăn.
Điều 4.
Tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện về cơ sở vật chất và nguồn tài chính để nuôi
dưỡng trẻ mồ côi, người tàn tật, người già cô đơn lâu dài với mức tối thiểu trở
lên theo quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch của Nhà nước, không yêu
cầu Nhà nước hỗ trợ kinh phí, được phép thành lập cơ sở bảo trợ xã hội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội trình Chính phủ ban hành "Quy chế thành lập và hoạt động của cơ sở bảo
trợ xã hội.
Điều 5. Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào hoàn cảnh thực tế
của người thuộc diện cứu trợ xã hội và khả năng nguồn lực của địa phương để quy
định mức trợ cấp xã hội, nhưng không thấp hơn mức trợ cấp quy định tại Điều 10
của Nghị định này.
Chương 2:
CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI
THƯỜNG XUYÊN
Điều 6. Người
thuộc diện cứu trợ xã hội thường xuyên tại xã, phường quản lý gồm:
1. Trẻ em mồ côi là trẻ em dưới
16 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không
còn người thân thích để nương tựa; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, nhưng người còn lại
là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 88 của Bộ Luật Dân sự hoặc không
đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật;
2. Người già cô đơn không nơi
nương tựa là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân. Người già còn vợ hoặc
chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, không
có nguồn thu nhập. Trường hợp là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có
nguồn thu nhập, từ đủ 55 tuổi trở lên, hiện đang được hưởng trợ cấp cứu trợ xã
hội vẫn tiếp tục được hưởng;
3. Người tàn tật nặng không có
nguồn thu nhập và không có nơi nương tựa; người tàn tật nặng tuy có người thân
thích nhưng họ già yếu hoặc gia đình nghèo không đủ khả năng kinh tế để chăm
sóc;
4. Người tâm thần mãn tính là
người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã
được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm
và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình
thuộc diện đói nghèo.
Điều 7. Người
thuộc diện cứu trợ xã hội quy định tại Điều 6 của Nghị định này thuộc diện đặc
biệt khó khăn không tự lo được cuộc sống thì được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo
trợ xã hội.
Điều 8.
Những người có hoàn cảnh như người thuộc diện cứu trợ xã hội nhưng còn nơi
nương tựa, có nguồn nuôi dưỡng mà gia đình làm đơn tự nguyện đưa vào cơ sở bảo
trợ xã hội, được cấp có thẩm quyền đồng ý thì gia đình phải chịu mọi chi phí
theo quy định.
Ngân sách Nhà nước không hỗ trợ
kinh phí cho đối tượng nói tại Điều này.
Điều 9.
1. Trẻ em
từ 13 tuổi trở lên thuộc các cơ sở bảo trợ xã hội không còn học văn hóa thì được
giới thiệu đến các trung tâm dạy nghề để học nghề theo quy định hiện hành của
Nhà nước.
2. Trẻ em đã trưởng thành, người
tàn tật đã phục hồi chức năng, người bệnh tâm thần đã ổn định, đang ở cơ sở bảo
trợ xã hội thì được đưa trở về địa phương. Ủy ban nhân dân xã, phường, gia đình
có trách nhiệm tiếp nhận và tạo điều kiện cho họ có việc làm và hoà nhập với cộng
đồng.
Điều 10.
1. Mức trợ
cấp cứu trợ xã hội thường xuyên tối thiểu do xã, phường quản lý bằng 45.000 đồng/người/tháng.
2. Mức trợ cấp sinh hoạt phí
nuôi dưỡng tối thiểu tại cơ sở bảo trợ xã hội của nhà nước bằng 100.000 đồng/người/tháng;
riêng đối với trẻ em dưới 18 tháng tuổi phải ăn thêm sữa, mức trợ cấp bằng
150.000 đồng/người/tháng.
Điều 11.
Ngoài trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Nghị định
này, các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội thuộc nhà nước quản lý được hưởng
thêm các khoản trợ cấp sau :
1. Trợ cấp để mua sắm tư trang,
vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày;
2. Trợ cấp mua thuốc chữa bệnh
thông thường;
3. Trợ cấp mua sách giáo khoa và
đồ dùng học tập đối với trẻ em đi học phổ thông, bổ túc văn hóa;
4. Trợ cấp hàng tháng vệ sinh cá
nhân đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ;
5. Trợ cấp mai táng phí.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức trợ cấp phù hợp với điều kiện cụ
thể của địa phương.
Điều 12.
Cơ sở bảo trợ xã hội được tiếp nhận, sử dụng và quản lý các nguồn kinh phí và
hiện vật (nếu có) do các tổ chức, cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện; bảo đảm
sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và thanh quyết toán theo chế độ tài chính
hiện hành.
Điều 13. Nguồn
kinh phí nuôi dưỡng, kinh phí hoạt động bộ máy và kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản
của các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc cấp nào quản lý do ngân sách cấp đó bảo đảm
theo quy định hiện hành của Luật Ngân sách Nhà nước.
Chương 3:
CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT
XUẤT
Điều 14.
Đối tượng được cứu trợ xã hội đột xuất (một lần) là những người hoặc hộ gia đình
khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác gây ra, bao gồm
:
1. Hộ gia đình có người bị chết,
mất tích;
2. Hộ gia đình có nhà ở bị đổ, sập,
trôi, cháy, hỏng nặng;
3. Hộ gia đình mất phương tiện sản
xuất, lâm vào cảnh bị thiếu đói;
4. Người bị thương nặng;
5. Người thiếu đói do giáp hạt;
6. Người gặp phải rủi ro ngoài
vùng cư trú mà bị thương nặng hoặc chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc
mai táng;
7. Người lang thang xin ăn trong
thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú.
Điều 15.
Mức trợ cấp cứu trợ xã hội đột xuất đối với từng nhóm đối tượng quy định tại
khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 14 của Nghị định này do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định tuỳ mức độ thiệt hại và khả
năng huy động nguồn lực.
Người lang thang xin ăn trong thời
gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú được trợ cấp 5.000 đồng/người/ngày, nhưng
không quá 15 ngày.
Điều 16.
Nguồn kinh phí để thực hiện cứu trợ đột xuất bao gồm :
1. Ngân sách Nhà nước cân đối
hàng năm; Ngân sách tỉnh, huyện, xã tự cân đối;
2. Do các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước ủng hộ;
3. Trợ giúp của nước ngoài, tổ
chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua Chính phủ, các đoàn
thể xã hội.
Trường hợp các nguồn kinh phí
trên không đủ để thực hiện cứu trợ đột xuất thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Chương 4:
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 17.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác
cứu trợ xã hội; chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn thực
hiện Nghị định này.
Điều 18.
1. Bộ Tài
chính có trách nhiệm đảm bảo kinh phí cứu trợ xã hội theo quy định hiện hành và
phù hợp với Luật Ngân sách Nhà nước.
2. Bộ Y tế có trách nhiệm hướng
dẫn việc phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh cho người thuộc diện cứu trợ xã hội
và giám định tình trạng bệnh tật của người tâm thần, người tàn tật.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có
trách nhiệm hướng dẫn việc tổ chức học văn hóa; miễn, giảm học phí và các khoản
đóng góp khác cho học sinh là người thuộc diện cứu trợ xã hội theo chế độ hiện
hành.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định
mức độ hậu quả thiên tai, mất mùa và đói giáp hạt để có biện pháp và hướng dẫn
tổ chức thực hiện việc cứu trợ xã hội đột xuất.
Điều 19. Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
1. Quản lý người thuộc diện cứu
trợ xã hội và cơ sở bảo trợ xã hội thuộc địa phương;
2. Tổ chức thực hiện chế độ cứu
trợ xã hội đối với từng nhóm người thuộc diện cứu trợ xã hội được quy định tại
Nghị định này;
3. Chỉ đạo việc xây dựng, quản
lý các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc địa phương;
4. Chỉ đạo cơ quan Lao động - Thương
binh và Xã hội, các ngành chức năng hướng dẫn các tổ chức và cá nhân hỗ trợ người
thuộc diện cứu trợ xã hội;
5. Hàng năm lập dự toán kinh phí
cứu trợ xã hội thường xuyên, cứu trợ xã hội đột xuất theo quy định của Luật
Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành; hướng dẫn Ủy ban nhân
dân cấp dưới, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội và các ngành chức năng
xây dựng và tổng hợp kế hoạch kinh phí cứu trợ xã hội thường xuyên, cứu trợ xã
hội đột xuất.
Chương 5:
KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI
PHẠM
Điều 20.
Người có nhiều công lao, thành tích đóng góp cho hoạt động từ thiện đối với người
thuộc diện cứu trợ xã hội thì được xét khen thưởng theo chế độ khen thưởng của
Nhà nước.
Điều 21.
Người vi phạm những quy định của Nghị định này, thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, trường hợp gây thiệt hại về vật chất thì
bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương 6:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 22.
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Những quy định trước đây trái với
Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 23.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Nghị định này.