Pháp lệnh Phòng chống lụt bão năm 1993
Số hiệu | 9-L/CTN |
Ngày ban hành | 08/03/1993 |
Ngày có hiệu lực | 20/03/1993 |
Loại văn bản | Pháp lệnh |
Cơ quan ban hành | Uỷ ban Thường vụ Quốc hội |
Người ký | Lê Đức Anh |
Lĩnh vực | Tài nguyên - Môi trường |
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9-L/CTN |
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 1993 |
SỐ 9-L/CTN NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 1993 CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC CÔNG BỐ PHÁP LỆNH VỀ PHÒNG CHỐNG LỤT BÃO
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều
103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội;
NAY CÔNG BỐ
Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá IX) thông qua ngày 8 tháng 3 năm 1993.
Lụt, bão là hiện tượng tự
nhiên, thường xảy ra ở nước ta có khi gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài
sản của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến
môi trường sinh thái;
Để nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc phòng, chống và khắc phục hậu quả
lụt, bão;
Căn cứ vào Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992;
Pháp lệnh này quy định việc phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài sống trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo pháp luật về phòng, chống lụt, bão của Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9-L/CTN |
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 1993 |
SỐ 9-L/CTN NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 1993 CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC CÔNG BỐ PHÁP LỆNH VỀ PHÒNG CHỐNG LỤT BÃO
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều
103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội;
NAY CÔNG BỐ
Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá IX) thông qua ngày 8 tháng 3 năm 1993.
Lụt, bão là hiện tượng tự
nhiên, thường xảy ra ở nước ta có khi gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài
sản của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến
môi trường sinh thái;
Để nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc phòng, chống và khắc phục hậu quả
lụt, bão;
Căn cứ vào Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992;
Pháp lệnh này quy định việc phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài sống trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo pháp luật về phòng, chống lụt, bão của Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Việc phòng ngừa lụt, bão lâu dài bao gồm:
1- Tổ chức và xây dựng hệ thống thu thập thông tin về sự biến động thời tiết toàn cầu, thời tiết khu vực và từng vùng trong cả nước; xử lý thông tin để nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo; phục vụ điều hành chỉ đạo, chỉ huy phòng ngừa lụt, bão;
2- Lập kế hoạch củng cố, đầu tư xây dựng công trình phòng, chống lụt, bão; giữ gìn và tu bổ đê điều; bảo vệ và trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, dải cây chắn sóng, chắn gió, chắn cát ven sông, ven biển; áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào công tác phòng ngừa lụt, bão;
3- Quy hoạch hợp lý vùng dân cư ở các khu vực thường chịu tác động của lụt, bão;
4- Xác định cơ cấu sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp phù hợp với đặc điểm lụt, bão của từng vùng;
5- Quy định tiêu chuẩn về phòng, chống lụt, bão cho từng vùng đối với các loại công trình xây dựng;
6- Tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân kiến thức, kinh nghiệm và pháp luật về phòng, chống lụt, bão;
7- Định kỳ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các kế hoạch phòng ngừa lụt, bão.
Việc phòng ngừa lụt, bão hàng năm bao gồm:
1- Quản lý, bảo vệ các công trình phòng, chống lụt, bão; ngăn chặn các hành vi có nguy cơ gây hư hại hoặc huỷ hoại công trình phòng, chống lụt, bão và công trình có liên quan đến phòng, chống lụt, bão;
2- Trong phạm vi quản lý thuộc cấp nào thì cấp đó phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá mức độ an toàn của các công trình phòng, chống lụt, bão và công trình có liên quan đến phòng, chống lụt, bão. Nếu phát hiện có hư hỏng hoặc suy yếu phải kịp thời có biện pháp xử lý.
Trong trường hợp vượt quá khả năng xử lý của mình, cấp kiểm tra phải báo cáo ngay với cơ quan cấp trên trực tiếp giải quyết trước mùa mưa bão;
3- Xây dựng phương án phòng ngừa lụt, bão trên toàn địa bàn và từng khu vực xung yếu, từng trọng điểm phòng, chống lụt, bão;
4- Dự phòng vật tư, phương tiện ứng cứu khi lụt, bão xảy ra trên địa bàn;
5- Dự trữ lương thực, nhu yếu phẩm thiết yếu, thuốc chữa bệnh tại những nơi xung yếu hiểm trở để sử dụng khi cấp thiết;
6- Tổ chức lực lượng và huấn luyện nghiệp vụ về dự báo, phòng, chống lụt, bão.
Nghiêm cấm việc tạo ra các vật làm cản hoặc các hoạt động khác gây khó khăn cho việc tiêu thoát lũ.
Vùng biển phải có trạm cứu hộ tàu thuyền.
Số lượng trạm, địa điểm xây dựng và quy chế hoạt động của trạm cứu hộ tàu thuyền do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Các thuyền viên và người làm nghề biển, ngoài việc phải tuân theo các quy định của pháp luật về hàng hải còn phải có kiến thức, kinh nghiệm về phòng, chống bão để xử lý khi nhận được tin cảnh báo bão.
1- Phát tin báo lụt, bão; quyết định cảnh báo, báo động lụt, bão; quyết định huy động khẩn cấp; quyết định biện pháp khẩn cấp về chống lụt, bão;
2- Bảo đảm thông tin, liên lạc chỉ huy thông suốt;
3- Kịp thời triển khai lực lượng và phương tiện ứng cứu chống lụt, bão;
4- Bảo vệ và cứu hộ các công trình phòng, chống lụt, bão đang bị sự cố hoặc có nguy cơ gây ra tai hoạ;
5- Cấp cứu người bị nạn; sơ tán dân ra khỏi vùng nguy hiểm; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân;
6- Bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội trong vùng có lụt, bão;
7- Hướng dẫn nhân dân thực hiện vệ sinh môi trường sinh thái và đề phòng dịch bệnh tại vùng có lụt, bão và ở khu vực dân sơ tán.
1- Tổng cực khí tượng thuỷ văn dự báo mưa, lụt, bão, áp thấp nhiệt đới và nước biển dâng trong phạm vi cả nước;
2- Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão cấp tỉnh ra quyết định cảnh báo, báo động lụt, bão trong địa phương mình.
Đối với vùng cao, hẻo lánh, trong trường hợp cần thiết Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão huyện có thể ra quyết định cảnh báo, báo động lũ tại địa phương và phải báo cáo ngay với Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão cấp trên;
3- Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão trung ương ra quyết định cảnh báo lụt, bão trong phạm vi cả nước;
4- Thủ tướng Chính phủ ra quyết định về các biện pháp khẩn cấp chống lụt, bão.
Khi hết lụt, bão cơ quan nào ra quyết định cảnh báo, báo động lụt, bão; ra quyết định về các biện pháp khẩn cấp chống lụt, bão thì cơ quan ấy có trách nhiệm thông báo bãi bỏ quyết định của mình.
Việc khắc phục hậu quả lụt, bão bao gồm :
1- Cứu hộ người và tài sản;
2- Kịp thời cứu trợ, giúp đỡ và ổn định đời sống cho nhân dân vùng bị lụt, bão gây thiệt hại;
3- Thực hiện các biện pháp để nhanh chóng phục hồi sản xuất;
4- Thực hiện vệ sinh môi trường sinh thái, chống dịch bệnh;
5- Sửa chữa các công trình phòng, chống lụt, bão và các công trình hạ tầng bị hư hỏng;
6- Điều tra, thống kê thiệt hại.
Việc khắc phục hậu quả lụt, bão ở địa phương nào do Uỷ ban nhân dân địa phương đó chỉ đạo thực hiện.
Trong trường hợp vượt quả khả năng của địa phương thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải báo cáo kịp thời với Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan phòng, chống lụt, bão cấp trên trực tiếp giải quyết.
NGUỒN TÀI CHÍNH PHÒNG, CHỐNG LỤT, BÃO
Nguồn tài chính phòng, chống lụt, bão bao gồm:
1- Ngân sách Nhà nước cấp hàng năm;
2- Quỹ phòng, chống lụt, bão của địa phương do nhân dân đóng góp theo quy định của Chính phủ;
3- Khoản cứu trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi lụt, bão xảy ra.
Việc lập quỹ dự phòng, chế độ quản lý và sử dụng quỹ dự phòng do Chính phủ quy định.
Nguồn tài chính phòng, chống lụt, bão được sử dụng trong các công việc sau đây:
1- Sửa chữa, xây dựng, nâng cấp công trình, trang thiết bị kỹ thuật cho công tác dự báo và chỉ đạo, chỉ huy về phòng, chống lụt, bão;
2- Cứu hộ người và tài sản, cứu hộ công trình bị sự cố do lụt, bão gây ra;
3- Khắc phục hậu quả lụt, bão.
Kinh phí, vật tư đã sử dụng để phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão không phân biệt từ nguồn nào, phải vào sổ sách và thanh quyết toán ngay sau mùa mưa bão.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG LỤT, BÃO
Nội dung quản lý Nhà nước về công tác phòng, chống lụt, bão bao gồm:
1- Lập quy hoạch, kế hoạch và chỉ đạo thực hiện việc dự báo, phòng, chống lụt, bão và khắc phục hậu quả lụt, bão;
2- Quản lý, bảo vệ, xây dựng và tu bổ các công trình phòng, chống lụt, bão và công trình có liên quan đến phòng, chống lụt, bão;
3- Quy định và tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách, thể lệ về dự báo, về phòng, chống lụt, bão và khắc phục hậu quả lụt, bão;
4- Thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến lụt, bão;
5- Quản lý các nguồn tài chính về phòng, chống lụt, bão;
6- Nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong việc dự báo, phòng, chống lụt, bão; bồi dưỡng nghiệp vụ cho người làm công tác dự báo, làm công tác phòng, chống lụt, bão;
7- Tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm và pháp luật về phòng, chống lụt, bão;
8- Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các chế độ, chính sách, thể lệ về dự báo, về phòng, chống lụt, bão, về khắc phục hậu quả lụt, bão và xử lý các vi phạm chế độ, chính sách, thể lệ đó;
9- Hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực dự báo, phòng, chống lụt, bão và giảm nhẹ thiên tai.
Bộ Thuỷ lợi là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão trung ương có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan theo các chức năng chuyên ngành giúp Chính phủ quản lý Nhà nước trong công tác nghiên cứu, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các phương án phòng, chống lụt, bão; quản lý, kiểm tra, hướng dẫn các cấp, các ngành trong việc thực hiện chế độ, chính sách, quy định kỹ thuật về bảo vệ đê điều; chỉ đạo công tác dự báo, phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão. Các bộ, ngành khác theo chức năng của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thuỷ lợi trong việc phòng, chống lụt, bão.
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý Nhà nước về công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão trong phạm vi địa phương mình theo quy hoạch, kế hoạch và phân cấp quản lý của Nhà nước.
Cơ quan quản lý Nhà nước về thuỷ lợi ở địa phương phối hợp với các cơ quan hữu quan giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ này.
Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão các cấp ở địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp thành lập có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp mình xét duyệt và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các phương án phòng, chống lụt, bão do cơ sở lập hàng năm theo quy hoạch và kế hoạch; chỉ đạo công tác hộ đê; tổ chức phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão trong địa phương mình theo sự hướng dẫn của Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão trung ương.
Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão của bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ do thủ trưởng bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập có nhiệm vụ giúp thủ trưởng tổ chức thực hiện công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão trong phạm vi bộ, ngành, cơ quan mình theo sự hướng dẫn của Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung ương.
Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của thanh tra chuyên ngành về công tác phòng, chống lụt, bão do Chính phủ quy định.
Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan quản lý Nhà nước về công tác phòng, chống lụt, bão hoặc với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác những vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực dự báo, phòng, chống và khắc phục hậu quả lụt, bão.
Cơ quan nhận được khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
Pháp lệnh này có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này.
|
Lê Đức Anh (Đã ký) |