LUẬT
SỐ 103-SL/L.005 NGÀY 20-5-1957 ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO THÂN THỂ
VÀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM ĐỐI VỚI NHÀ Ở, ĐỒ VẬT, THƯ TÍN CỦA NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
RA SẮC LỆNH
Nay ban bố luật quy định quyền tự
do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân
dân đã được Quốc hội biểu quyết trong khoá họp thứ VI như sau:
LUẬT
ĐẢM
BẢO QUYỀN TỰ DO THÂN THỂ VÀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM ĐỐI VỚI NHÀ Ở, ĐỒ VẬT,
THƯ TÍN CỦA NHÂN DÂN
Chương 1:
NGUYÊN TẮC
Điều 1. Quyền
tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của
nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được xâm phạm các quyền ấy.
Điều 2. Việc
bắt, giam người phạm đến pháp luật Nhà nước, việc khám người, nhà ở, đồ vật,
thư tín phải theo thủ tục quy định dưới đây:
Chương 2:
VIỆC BẮT NGƯỜI PHẠM PHÁP
Điều 3. Ngoài
những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp nói trong điều 4, bắt
người phạm đến pháp luật Nhà nước phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp từ cấp
tỉnh hoặc thành phố trở lên nếu là thường dân phạm pháp, hoặc của toà án binh nếu
là quân nhân phạm pháp, hay là thường dân phạm pháp có liên quan đến quân đội
nhân dân.
Điều 4. Đối
với những người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền bắt và phải
giải ngay đến Uỷ ban Hành chính, Toà án nhân dân hoặc đồn công an nơi gần nhất.
Trong những
trường hợp khẩn cấp, cơ quan công an có thể bắt giữ trước khi có lệnh viết của
các cơ quan định trong điều 3, và phải báo cho các cơ quan đó biết.
Những trường hợp phạm pháp quả
tang và trường hợp khẩn cấp là những trường hợp đặc biệt do luật quy định.
Chương 3:
VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM,
TẠM THA
Điều 5. Người
phạm pháp bị bắt phải được giải lên cơ quan tư pháp hoặc cơ quan công an từ cấp
huyện trở lên trong hạn hai mươi bốn giờ kể từ lúc bắt.
Cơ quan tư pháp huyện hoặc công
an huyện được tạm giữ can phạm trong hạn ba ngày kể từ lúc nhận can phạm để xét
và hỏi cung, rồi phải quyết định tha hẳn, tạm tha, hoặc giải lên toà án nhân
dân hoặc công an cấp trên.
Điều 6. Cơ
quan tư pháp, công an từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên hoặc toà án binh phải
hỏi cung trong hạn ba ngày kể từ lúc nhận giữ can phạm, để quyết định việc tha
hẳn, tạm tha hoặc tạm giam.
Lệnh tạm giam can phạm do cơ
quan tư pháp từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên hoặc toà án binh ký.
Điều 7. Thời
hạn tạm giam không được quá:
- Hai tháng đối với các vụ thường
phạm mà luật pháp quy định hình phạt từ năm năm tù trở xuống.
- Bốn tháng đối với các vụ phạm
đến an toàn Nhà nước và các vụ thường phạm mà luật pháp quy định hình phạt trên
năm năm tù.
- Nếu xét thật cần thiết cho cuộc
điều tra thì cơ quan ra lệnh tạm giam có thể gia hạn một hoặc hai lần nữa. Đối
với những vụ án phức tạp, cần phải điều tra lâu hơn, thì phải được sự chuẩn y của
cơ quan tư pháp trung ương.
Điều 8. Trong
trường hợp việc tạm giam không cần thiết cho cuộc điều tra nữa, hoặc việc tạm
tha không gây nguy hiểm gì cho trật tự chung, thì cơ quan tư pháp hoặc toà án
binh nào đã ra lệnh tạm giam có thể tự mình, hoặc căn cứ vào đơn xin của can phạm,
ra lệnh tạm tha.
Đối với những can phạm già yếu,
có bệnh nặng, hoặc phụ nữ có thai nghén, hoặc phụ nữ đang thời kỳ cho con bú,
thì có thể cho tạm tha, và nếu cần sẽ giám thị tại chỗ ở.
Chương 4:
VIỆC KHÁM NGƯỜI, KHÁM ĐỒ
VẬT, KHÁM NHÀ Ở VÀ THƯ TÍN
Điều 9. Trừ
những trường hợp định ở điều 10 và điều 11, khám người, đồ vật hoặc nhà ở, thư
tín của tư nhân thì phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh hoặc
thành phố trở lên hoặc của toà án binh, tuỳ tính chất vụ phạm pháp.
Điều 10. Trong
những trường hợp phạm pháp quả tang, hoặc tiến hành điều tra vụ án mà can phạm
đang bị tạm giữ, hoặc tạm giam, hoặc được uỷ quyền điều tra toàn bộ vụ phạm
pháp, tư pháp, công an, toà án binh có thể khám người, đồ vật, nhà ở, thư tín của
người phạm pháp và những người có liên quan đến vụ án.
Điều 11.
Trong những trường hợp khẩn cấp, hoặc có triệu chứng phạm pháp, công an có thể
khám người, đồ vật, nhà ở, thư tín.
Điều 12. Trừ
những trường hợp định ở điều 10 và điều 11, nhân viên thi hành lệnh khám nhà phải
cùng đi với một uỷ viên Uỷ ban Hành chính địa phương, người chủ nhà hoặc thay mặt
chủ nhà và một người láng giềng, khi khám xong phải lập biên bản khám xét và giữ
tang vật nếu có.
Điều 13. Cơ
quan đang tiến hành cuộc điều tra nếu thấy cần giữ lại những thư từ, điện tín,
bưu phẩm của những người phạm pháp, thì có thể yêu cầu cơ quan bưu điện giao lại
để xét.
Chương 5:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 14. Đối
với những người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, tuyệt đối nghiêm cấm tra tấn hoặc
dùng bất cứ nhục hình nào.
Điều 15. Trong
khi tiến hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khám người, khám đồ vật, khám nhà và
thư tín, mà người phạm pháp kháng cự lại hoặc có hành động để trốn tránh pháp
luật thì có thể dùng phương pháp cưỡng chế thích đáng để bắt kẻ phạm pháp tuân
theo pháp luật.
Điều 16. Những
người bắt, giam, khám người, khám đồ vật, nhà ở, thư tín trái với đạo luật này
thì tuỳ trường hợp có thể bị thi hành kỷ luật hành chính hoặc xử phạt từ mười
lăm ngày đến ba năm tù.
Nếu phạm tội tra tấn, dùng nhục hình
thì sẽ bị xử phạt thêm theo hình luật chung.
Điều 17. Việc
tạm giữ người phạm tội vi cảnh và quyền hạn của cán bộ, nhân viên các ngành thuế,
ngành hải quan, lâm chính trong việc khám người, đồ vật, nhà ở không thuộc phạm
vi của đạo luật này.
Điều 18. Tất
cả luật lệ nào trái với luật này đều bãi bỏ.
Điều 19. Chính
phủ quy đinh chi tiết thi hành luật này.