Chỉ thị 07-TANDTC/CT năm 1983 về xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ do Tòa án nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 07-TANDTC/CT
Ngày ban hành 22/12/1983
Ngày có hiệu lực 22/12/1983
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Tòa án nhân dân tối cao
Người ký ***
Lĩnh vực Trách nhiệm hình sự,Thủ tục Tố tụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 07-TANDTC/CT

Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 1983 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC XÉT XỬ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG HOẶC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG HOẶC TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Để bảo đảm cho mọi cán bộ và công dân tích cực tham gia đấu tranh chống tội phạm, đồng thời ngăn ngừa, hạn chế thái độ thiếu trách nhiệm, bừa ẩu, coi thường tính mạng hoặc sức khỏe của người khác của một số người được giao vũ khí để làm công vụ, Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào Sắc luật 03 ngày 15-3-1976 (các khoản a và b của điều 5) và Nghị định số 301 ngày 10-7-1957 của Thủ tướng Chính phủ (điều 22), đã ra chỉ thị số 73-TATC ngày 2-6-1980.

Chỉ thị này đã tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn cách phân biệt giữa các trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội do sử dụng vũ khí ngoài trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ, với các trường hợp phạm tội thông thường.

Chỉ thị này có tác dụng nâng cao chất lượng xét xử và góp phần nâng cao ý thức thận trọng của người sử dụng vũ khí để phòng vệ hoặc trong khi thi hành công vụ.

Tuy nhiên thực tiễn thi hành chỉ thị này cho thấy cần có hướng dẫn bổ sung để đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong tình hình hiện nay.

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã họp, có sự tham dự của các đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ, để tổng kết thực tiễn xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ trên cơ sở thi hành Chị thị 73 nhằm uốn nắn và bổ sung một số vấn đề trong công tác đấu tranh phòng và chống loại tội phạm nói trên.

Sau khi tổ chức phổ biến bản tổng kết thực tiễn xét xử, nghiên cứu ý kiến đóng góp của đại diện các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương và sau khi có ý kiến tham gia chính thức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao ra chỉ thị này hướng dẫn cụ thể, “về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ” nhằm đáp ứng yêu cầu tình hình và thay thế Chỉ thị 73-TATC ngày 2-6-1980.

Việc xét xử các hành vi này, ngoài việc trừng trị kẻ phạm tội còn nhằm:

- Bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của mọi công dân bảo vệ lợi ích của Nhà nước đồng thời chống mọi biểu hiện coi thường mệnh lệnh đúng đắn của người có chức vụ, quyền hạn đang thi hành công vụ, phản ứng tiêu cực đối với những người đấu tranh ngăn ngừa tội phạm;

- Bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của người có chức vụ, quyền hạn, nhưng chống thái độ hách dịch, coi thường quần chúng, tệ quan liêu, mệnh lệnh, thậm chí coi rẻ tính mạng của người khác.

I- VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG HOẶC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG

A- VỀ ĐỊNH TỘI

Đối với những hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì tuỳ trường hợp mà định tội là: “Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”, hay “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn ạhi cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.

1- Để xác định tội danh được chính xác, cần phân biệt ranh giới giữa phòng vệ chính đáng với vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Khoản 1 điều 13 phần chung Bộ luật hình sự được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 5 thông qua sơ bộ đã chỉ rõ: “phòng vệ chính đáng là hành vi của người bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, mà chống lại một cách tương xứng người đang có hành vi xâm phạm lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.

Vậy hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

a) Hành vi xâm hại lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc lợi ích chính đáng của công dân phải có tính nguy hiểm cho xã hội với mức độ đáng kể, mặc dù không nhất thiết phải là một hành vi phạm tội. Ví dụ: Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, trong điều kiện bình thường, dùng dao chém người khác; người không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự (người mắc bệnh tâm thần, trẻ em dưới 14 tuổi) có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội hay cho người khác như đốt nhà hoặc dùng dao chém người khác.

Nếu hành vi xâm hại chỉ có tính chất nhỏ nhặt, tức là tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, không phải là phạm tội (như trộm cấp vặt, xô đẩy, đấm đá nhẹ…) thì việc phòng vệ bằng cách gây thiệt hại đến tính mạng hoặc sức khỏe của người xâm hại không được coi là phòng vệ chính đáng, mà là hành vi phạm tội theo các tội danh khác nhau, tùy từng trường hợp cụ thể (gọi tắt là theo quy định chung của pháp luật).

Việc người có hành vi nguy hiểm cho xã hội khi bị người khác bắt, giữ (tức là thực hiện hành vi có ích cho xã hội) đã chống trả lại, gây thiệt hại cho người bắt giữ không được coi là phòng vệ chính đáng, mà phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định chung của pháp luật. Ví dụ: Hành vi của kẻ gây rối trật tự đánh lại nhân viên công an hoặc đội viên thanh niên cờ đỏ đang dùng vũ lực để bắt giữ thì bị coi là tội chống người thi hành công vụ.

b) Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là đã bắt đầu, nếu nó đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng hoặc sức khỏe của người xâm hại không được coi là phòng vệ chính đáng. Ví dụ: B gặp A đang đi ngoài phố, B bảo A: “Nếu đến giờ X, ngày Y… mà A không đem tiền hoặc đồ vật đến nộp ở địa điểm Z…, thì sẽ bị giết”, A bực mình rút ngay súng bắn chết B. C cãi nhau với D và bị D đánh; khi D bỏ đi, C lấy súng bắn đuổi theo làm cho D chết. Hành vi phòng vệ “quá sớm” của A và hành vi phòng vệ “quá muộn” của C không được coi là phòng vệ chính đáng, mà cấu thành tội giết người thông thường với tình tiết giảm nhẹ do nạn nhân có lỗi.

c) Hành vi phòng vệ chính đáng được thực hiện không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà có thể bằng cách tích cực, chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại và do đó chỉ có thể là cố ý. Ví dụ: A cầm gậy đánh B, B tránh được rồi đâm A ngã gục.

Vì vậy, nếu một người dù có khả năng bỏ chạy hoặc kêu cứu mà vẫn gây thiệt hại cho người xâm hại để phòng vệ, thì hành động của họ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.

Nếu trong khi phòng vệ mà gây thiệt hại, không phải là cho người xâm hại, mà cho người thứ ba, thì hành vi gây thiệt hại không được coi là phòng vệ chính đáng, mà tùy theo tình tiết của sự việc cấu thành tội giết người, tội cố ý gây thương tích nặng, gây tổn hại cho sức khỏe người khác…, theo quy định chung của pháp luật và có thể có tình tiết giảm nhẹ nhất định. Ví dụ: vì bị A đánh, B vừa tránh vừa chém lại A, nhưng không may lại chém nhầm phải C là người vừa vào để can ngăn.

Hành vi vô ý gây thiệt hại cho người xâm hại không phải là phòng vệ chính đáng, mà có thể là hành vi phạm tội thông thường vô ý. Ví dụ: Khi giằng co để không cho người say rượu đánh mình, người cầm súng đã vô ý để súng nổ làm chết người say rượu.

Hành vi phòng vệ bằng cách cố ý gây thương tích, nhưng dẫn đến hậu quả chết người (ngoài sự mong muốn của người gây thương tích), cũng được coi là có tính chất phòng vệ.

d) Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.

Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ. Giữa hai thiệt hại đó có thể không có sự phù hợp về lượng hoặc về chất, chỉ miễn là không có sự chênh lệch quá đáng sau khi cân nhắc tính chất quan trọng của lợi ích được bảo vệ bằng phòng vệ chính đáng, sức mạnh của sự xâm hại, khả năng và hoàn cảnh thực tế của người phòng vệ. Ví dụ: một nhóm người xông vào đánh B, B bất ngờ bị đánh đau và bỏ chạy; chạy được mấy chục mét vẫn thấy có một số người đuổi theo, B đứng lại, mở dao nhíp có sẵn trong người để đe “đứa nào vào đây, tao đâm”; một trong số những người đuổi theo xông vào để tiếp tục đánh, B dùng dao nhíp dâm bừa một nháp vào ngực người đó làm người đó chết.

[...]