Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Kết luận 27-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết 53-NQ/TW đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành

Số hiệu 27-KL/TW
Ngày ban hành 02/08/2012
Ngày có hiệu lực 02/08/2012
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Ban Chấp hành Trung ương
Người ký Lê Hồng Anh
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 27-KL/TW

Hà Nội, ngày 02 tháng 08 năm 2012

 

KẾT LUẬN

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 53-NQ/TW, NGÀY 29/8/2005 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA IX ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH VÙNG ĐÔNG NAM BỘ VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM ĐẾN NĂM 2020

Tại phiên họp ngày 05/7/2012, sau khi xem xét báo cáo kết quả tổng kết Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” của Ban cán sự đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận:

1- Về tình hình thực hiện Nghị quyết

1.1- Nghị quyết số 53-NQ/TW của Bộ Chính trị đã được các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc. Trong 5 năm (2006-2010) triển khai thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chủ trương, chính sách khác của Đảng và Nhà nước, vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đạt được những bước phát triển quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nổi bật là:

Nhiều mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội vùng trong Nghị quyết đề ra đã hoàn thành đạt và vượt: tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn vùng đạt trung bình khoảng 11%/năm, tỉ trọng khu vực dịch vụ trong cơ cấu kinh tế đạt trên 40%, giải quyết việc làm hằng năm khoảng 50 vạn lao động... Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tiếp tục đóng góp lớn vào thu ngân sách nhà nước và kim ngạch xuất khẩu cả nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng vốn đạt trình độ khá nhất trong cả nước, tiếp tục được đầu tư mở rộng và nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tỉ lệ đô thị hóa của vùng đạt cao nhất cả nước với nhiều chương trình đầu tư phát triển đô thị mới theo hướng đồng bộ, hiện đại. Công tác cải cách hành chính được triển khai có hiệu quả, hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp đã hướng đến phục vụ người dân và doanh nghiệp nhiều hơn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục – đào tạo, y tế.. đều có bước phát triển đáng kể; tỉ lệ hộ nghèo và tỉ lệ thất nghiệp giảm mạnh; an ninh trật tự xã hội và quản lý đô thị có nhiều tiến bộ, thực hiện tốt các chương trình an sinh xã hội. Đời sống nhân dân từng bước không ngừng được cải thiện. Tiềm lực quốc phòng và an ninh trên địa bàn được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và khu vực phòng thủ được xây dựng và củng cố vững chắc. Hệ thống chính trị các cấp được củng cố, xây dựng và kiện toàn, phương thức hoạt động có những đổi mới và hiệu quả.

1.2- Những kết quả đạt được là to lớn và rất quan trọng, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém chủ yếu sau đây:

- Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, thiếu bền vững, phát triển kinh tế ở một số nơi, một số lĩnh vực còn mang tính tự phát, tỉ trọng các ngành nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn cao so với mục tiêu Nghị quyết đề ra. Chưa có giải pháp cụ thể nhằm giảm dần chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa bàn trong vùng.

- Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp, tỉ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt mục tiêu đề ra, lao động kỹ thuật có tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tỉ lệ lao động thất nghiệp vẫn giữ ở mức tương đối cao so với các vùng khác trong cả nước.

- Công nghiệp phát triển nhanh nhưng thiếu tính bền vững và đồng bộ; tiến trình công nghiệp hóa chưa đi đôi với hiện đại hóa. Chi phí sản xuất công nghiệp cao, tỉ lệ nội địa hóa thấp. Chưa đạt được mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn; phân bố các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa hợp lý; chất lượng và sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn thấp.

- Kết cấu hạ tầng chưa theo kịp với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của vùng và đang ngày càng quá tải; ùn tắc giao thông trên các tuyến đường quốc lộ và các tuyến đường nội đô ngày càng nghiêm trọng; tình trạng quá tải ở hầu hết các trường học, cơ sở đào tạo, dạy nghề công lập, các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng lớn. Quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị và khu công nghiệp còn bất cập. Tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước và vấn đề xử lý chất thải rắn đang là vấn đề bức xúc trong vùng. Tình trạng ngập úng tại Thành phố Hồ Chí Minh chậm được khắc phục.

- Sự phối hợp giữa các địa phương, giữa các bộ, ngành và địa phương chưa tốt, chưa tạo được hiệu quả cần thiết trong việc kết nối hạ tầng giao thông giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh lân cận, trong phát triển đô thị, hình thành các khu xử lý chất thải rắn liên tỉnh...; vấn đề liên kết vùng và phối hợp phát triển còn yếu.

Những tồn tại trên có nguyên nhân khách quan nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:

- Nhận thức của một số bộ, ngành và địa phương về nội dung, tầm quan trọng của Nghị quyết số 53-NQ/TW chưa triệt để, chưa thấy hết được vị trí, tiềm năng, yêu cầu phát triển của vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, chưa quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, đặc thù nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng.

- Mục tiêu của Nghị quyết đề ra khá cao trong khi nguồn lực còn hạn chế và trong quá trình thực hiện chưa có dự báo chính xác những hệ lụy của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu để từ đó có các giải pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả.

- Năng lực lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác dự báo, đánh giá tình hình còn yếu, chưa nhận định và lường hết những thuận lợi, khó khăn, thách thức để đề ra nhiệm vụ và giải pháp kịp thời, có tính khả thi cao.

- Cơ chế phối hợp vùng còn mang tính hình thức, thiếu chặt chẽ trong tổ chức thực hiện; cơ chế phối hợp trong bố trí nguồn lực chưa hiệu quả...

2- Phương hướng đến năm 2020

Để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam từ nay đến năm 2020, Bộ Chính trị yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng ủy trực thuộc Trung ương cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:

2.1- Nhận thức rõ vị trí, vai trò của vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang là vùng kinh tế trọng yếu, đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát huy các lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và các mối quan hệ đối ngoại, vùng đảm nhiệm chức năng đầu mối giao lưu với khu vực và thế giới, đi đầu trong hội nhập quốc tế của cả nước. Bên cạnh đó, vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trung tâm giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trung tâm nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học và công nghệ hàng đầu cả nước.

2.2- Về mục tiêu đến năm 2020

Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo chuyển biến rõ rệt về chất, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả các ngành kinh tế, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đóng góp hiệu quả vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế của cả nước. Chủ động khai thác cơ hội, phát huy tốt đa lợi thế và hạn chế các mặt bất lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế, xã hội, môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Phấn đấu trong thời kỳ 2011-2020 tốc độ tăng trưởng GDP vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt bình quân khoảng 9-10%/năm. Đến năm 2020, tỉ trọng khu vực phi nông nghiệp chiếm khoảng 96% trong cơ cấu kinh tế, GDP bình quân đầu người của vùng gấp khoàng 2 lần mức bình quân chung cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của vùng tăng trưởng bình quân 10-11%/năm, thu ngân sách đóng góp 55-60% thu ngân sách của cả nước thời kỳ 2011-2020.

2.3- Về nhiệm vụ

a) Về phát triển kinh tế

- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả. Phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ cao, thu hút lao động có trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề chuyên môn cao; tiếp tục phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh các ngành công nghiệp chủ lực, có thế mạnh, chọn khâu đột phá phát triển các ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, hóa chất, dược phẩm, công nghiệp phần mềm, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học... Đối với khu vực dịch vụ tập trung phát triển dịch vụ cao cấp, chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, thương mại, viễn thông, vận tải, khoa học công nghệ, đào tạo, y tế, du lịch... Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành một trung tâm dịch vụ chất lượng cao ngang tầm khu vực và quốc tế. Phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa lớn với hình thức tổ chức và kỹ thuật hiện đại, tạo ra sản phẩm đa dạng, an toàn, chất lượng cao phục vụ các đô thị, công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

- Tăng cường liên kết vùng, xây dựng không gian kinh tế thống nhất nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi tỉnh, thành phố và toàn vùng, tạo sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau có hiệu quả giữa các địa phương. Giảm bớt sự tập trung phát triển công nghiệp vào Thành phố Hồ Chí Minh, chuyển dần các cơ sở công nghiệp sang các khu vực còn dư địa phát triển, nhất là các tỉnh Tây Ninh, Long An, Bình Phước, Tiền Giang.

[...]