Kế hoạch 493/KH-UBND năm 2022 về củng cố phát triển hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2022-2025

Số hiệu 493/KH-UBND
Ngày ban hành 27/10/2022
Ngày có hiệu lực 27/10/2022
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bắc Ninh
Người ký Vương Quốc Tuấn
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC NINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 493/KH-UBND

Bắc Ninh, ngày 27 tháng 10 năm 2022

 

KẾ HOẠCH

CỦNG CỐ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2022 -2025

Thực hiện Nghị quyết số 20/NQ-TW, ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển KTTT trong giai đoạn mới;

Căn cứ Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) giai đoạn 2021-2030;

Căn cứ Kết luận số 529-KL/TU ngày 18/10/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc cho ý kiến nội dung Kế hoạch củng cố phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2022-2025;

Theo đề nghị của Liên minh HTX tỉnh tại văn bản số 191-TTr/LMHTX ngày 25 tháng 10 năm 2022 về Kế hoạch củng cố phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2022-2025.

UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành Kế hoạch củng cố phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2022-2025 với những nội dung sau:

I. THỰC TRẠNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

1. Thực trạng hợp tác xã (HTX) nông nghiệp

1.1. Về số lượng, doanh thu và thu nhập

Đến 30/6/2022 toàn tỉnh có 219 tổ hợp tác, 553 HTX nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX năm 2012, chiếm 79,8 % HTX trong toàn tỉnh, trong đó 289 HTX dịch vụ nông nghiệp (gồm có: 268 HTX quy mô thôn và 21 HTX quy mô toàn xã) và 264 HTX chuyên ngành nông nghiệp.

Đối với 289 HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã và đang tổ chức, thực hiện tốt 7 khâu dịch vụ đó là: Dịch vụ tưới tiêu và bảo vệ đồng điền có: 267 HTX; Dịch vụ bảo vệ thực vật có 176 HTX; dịch vụ thú y có: 22 HTX; Dịch vụ làm đất có: 266 HTX; Dịch vụ khuyến nông (chuyển giao tiến bộ kỹ thuật) có 81 HTX; Dịch vụ cung ứng vật tư có: 102 HTX; Dịch vụ chế biến bảo quản và tiêu thụ nông sản có 43 HTX.

Tổng số vốn hoạt động của các HTX nông nghiệp (tính đến tháng 12/2021) là 334.408 triệu đồng. Trong đó: Vốn cố định: 303.422 triệu đồng; vốn lưu động: 30.986 triệu đồng. Phân loại nguồn hình thành: Vốn góp của các thành viên HTX 53.973 triệu đồng, vốn tích lũy hàng năm và vốn khác: 1.000 triệu đồng; vốn vay ngân hàng 4.000 triệu đồng.

Qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của các HTX nông nghiệp tỉnh đến cuối năm 2021: Toàn tỉnh có 297/553 HTX nông nghiệp thực hiện báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể: Tổng doanh thu của 297 HTX nông nghiệp đạt 40.345 triệu đồng (doanh thu trung bình 1 HTX đạt 137,5 triệu đồng/HTX), trong đó: Số HTX nông nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi: 111 HTX, với tổng số lãi là 11.710 triệu đồng, bình quân 01 HTX lãi 105,5 triệu đồng/năm. Số HTX sản xuất kinh doanh hòa vốn là: 123 HTX. Số HTX sản xuất kinh doanh nhưng không có báo cáo kết quả SXKD là 256 HTX.

1.2. Về thành viên, lao động của HTX nông nghiệp

Hiện nay, các HTX nông nghiệp đã thu hút được khoảng 63.933 thành viên và 54.068 lao động tham gia; bình quân 01 HTX có 115,6 thành viên. Trong đó, số lao động làm việc thường xuyên là 54.086 lao động, chủ yếu là người trung tuổi, nhàn rỗi tại các địa phương.

1.3. Về trình độ quản lý HTX nông nghiệp

Tổng số cán bộ quản lý HTX nông nghiệp có 1.343 cán bộ quản lý HTX trong đó có: 157 cán bộ có trình độ đại học, 298 cán bộ có trình độ cao đẳng, 218 cán bộ có trình độ trung cấp, 670 cán bộ chưa qua đào tạo.

2. Ưu điểm

Chất lượng nông sản hàng hóa của các HTX ngày càng được nâng lên; sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm, mẫu mã, bao bì phong phú; thông qua các HTX đã thu hút được nhiều doanh nghiệp liên danh, liên kết đầu tư; nhiều HTX xây dựng được vùng nguyên liệu lớn, phát triển thị trường, mở rộng sản xuất, thu hút được nhiều lao động nông nhàn ở nông thôn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Đến nay, toàn tỉnh có 8 HTX nông nghiệp tham gia chuỗi sản phẩm nông nghiệp chủ lực, 16 HTX nông nghiệp liên kết sản xuất với doanh nghiệp.

Thực hiện tốt các dịch vụ công, dịch vụ đầu vào và tổ chức sản xuất đúng thời vụ. Đồng thời, các HTX cũng là cầu nối chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, các chính sách của Trung ương của tỉnh đến các thành viên và nhân dân tại địa phương. Nhiều HTX nông nghiệp đã thực hiện tốt chức năng xã hội thông qua việc tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn; xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn: Hỗ trợ cho các dự án phát triển kết cấu hạ tầng cộng đồng khu dân cư, hỗ trợ bằng tiền hoặc ngày công lao động cho các hộ thành viên nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; cho vay với lãi suất thấp, ứng trước giống, phân bón, tạo công ăn việc làm cho các thành viên, người lao động trong hợp tác xã. Hoạt động của HTX nông nghiệp gắn bó mật thiết với người dân địa phương, gắn kết cộng đồng, cùng nhau nâng cao trách nhiệm xã hội, giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống, văn hóa, tinh thần; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các thôn xóm; xây dựng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lan tỏa các giá trị tốt đẹp đầy tính nhân văn; khác hẳn so với các tổ chức kinh tế khác và ngày càng trở thành yếu tố tinh thần không thể thiếu của địa phương, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế -xã hội chung của địa phương, của tỉnh.

3. Tồn tại, hạn chế

Nhận thức, sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền ở một số nơi về HTX chưa đầy đủ. Công tác quản lý Nhà nước đối với HTX nông nghiệp chưa được chặt chẽ, chưa có sự phân công rõ ràng, một số nhiệm vụ còn chồng chéo. Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn thiếu và yếu, trình độ chuyên môn thấp, đa số cán bộ quản lý mới chỉ được tham gia các khóa bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn, chất lượng hoạt động của HTX còn hạn chế, công tác quản lý thiếu tính chuyên nghiệp, lao động thiếu kỹ thuật nên hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp chưa cao. Số lượng HTX nông nghiệp tuy nhiều nhưng số HTX hoạt động có hiệu quả lại chiếm tỷ lệ thấp; quy mô còn nhỏ lẻ (nhất là các HTX dịch vụ nông nghiệp); diện tích đất sản xuất của HTX bị thu hẹp do phát triển công nghiệp và đô thị; vốn điều lệ, vốn góp của các thành viên thấp, đa số các HTX nông nghiệp thiếu vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh; khi vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng gặp khó khăn do không có tài sản thế chấp dẫn tới năng lực nội tại yếu. Một số HTX dịch vụ nông nghiệp sau khi tổ chức lại hoạt động theo Luật HTX năm 2012 đến nay chưa hoàn thành thủ tục quy định theo luật (không kê khai với cơ quan thuế và báo cáo tình hình hoạt động HTX). Đa số các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay có quy mô xã, quy mô thôn; giám đốc, hội đồng quản trị, thành viên HTX chủ yếu do cấp ủy, chính quyền địa phương cử sang kiêm nhiệm, chưa chọn lựa được những thành viên giỏi tham gia nên hoạt động còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa thu hút được nhiều thành viên và người lao động tham gia. Đa số các HTX nông nghiệp chưa thực hiện chế độ BHXH và BHYT cho thành viên và người lao động. Năng lực nội tại của nhiều HTX còn yếu, cơ sở vật chất kỹ thuật của nhiều HTX còn hạn chế, máy móc thiết bị cũ, trình độ công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công là phổ biến nên gặp khó khăn về xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm và tiêu thụ hàng hóa. Cơ bản các HTX nông nghiệp không có trụ sở làm việc phải mượn tạm phòng làm việc trong trụ sở UBND xã, các nhà văn hóa thôn hoặc nhờ nhà của cán bộ HTX và không có khu nhà xưởng, nhà kho... Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhiều HTX còn hạn chế, máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, sản xuất thủ công là phổ biến, chưa xây dựng được nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm nên gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa.

4. Nguyên nhân tồn tại hạn chế

Nhận thức về vai trò, vị trí, bản chất của kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới trong xã hội chưa có sự thống nhất nên việc chỉ đạo, định hướng phát triển kinh tế tập thể, HTX của cấp ủy, chính quyền địa phương chưa được quan tâm. Coi HTX như công cụ của chính quyền và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy địa phương nhất là các HTX dịch vụ nông nghiệp quy mô thôn.Chưa có chính sách, giải pháp phù hợp để khuyến khích và đưa cán bộ có năng lực quản lý và trình độ chuyên môn đã qua đào tạo về làm việc tại các HTX nông nghiệp. Sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa có vùng sản xuất quy mô lớn, thiếu sự liên kết giữa các thành viên trong HTX, mặc dù tỉnh đã có chủ trương tích tụ ruộng đất nhưng chưa đi vào cuộc sống, do thiếu sự chỉ đạo dẫn đến chính sách hỗ trợ ưu đãi về phát triển kinh tế tập thể HTX nông nghiệp được ban hành nhiều, song việc thực hiện gặp nhiều khó khăn nên nhiều HTX chưa tiếp cận được, chưa thực sự hỗ trợ, khuyến khích HTX phát triển. Năng lực tổ chức hoạt động của bộ máy quản lý HTX còn thiếu năng động, sáng tạo; quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

- Phát triển KTTT, HTX nông nghiệp năng động, hiệu quả, tạo việc làm nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho các thành viên tăng thu nhập góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp tục phát huy và khẳng định vị trí vai trò của KTTT, HTX nhất là các HTX nông nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh.

[...]