Thứ 7, Ngày 26/10/2024

Kế hoạch 4065/KH-UBND năm 2014 thực hiện Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2014-2020 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Số hiệu 4065/KH-UBND
Ngày ban hành 23/09/2014
Ngày có hiệu lực 23/09/2014
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Phú Thọ
Người ký Hà Kế San
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 4065/KH-UBND

Phú Thọ, ngày 23 tháng 9 năm 2014

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN ĐỀ ÁN CHĂM SÓC TRẺ EM MỒ CÔI KHÔNG NƠI NƯƠNG TỰA, TRẺ EM BỊ BỎ RƠI, TRẺ EM NHIỄM HIV/AIDS, TRẺ EM LÀ NẠN NHÂN CỦA CHẤT ĐỘC HÓA HỌC, TRẺ EM KHUYẾT TẬT NẶNG VÀ TRẺ EM BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI THIÊN TAI, THẢM HỌA DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG GIAI ĐOẠN 2014-2020 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

Thực hiện Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 – 2020 (sau đây gọi tắt là Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng); Thông tư liên tịch số 213/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 30/12/2013 của Bộ Tài chính và Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 – 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng giai đoạn 2014 - 2020 trên địa bàn tỉnh như sau:

Phần thứ nhất:

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC CHĂM SÓC, BẢO VỆ VÀ TRỢ GIÚP TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

I. Thực trạng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh:

Toàn tỉnh hiện có 329 ngàn trẻ em dưới 16 tuổi, chiếm tỷ lệ 24,79% dân số, có 91.813 trẻ em đang sống trong các hộ gia đình nghèo và cận nghèo, chiếm 27,9% số trẻ em toàn tỉnh, trên địa bàn tỉnh có 6.134 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,trong đó:

- Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi: 3.367;

- Trẻ em bị khuyết tật nặng và đặc biệt nặng: 2.162;

- Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS: 33 ;

-Trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học da cam – Dioxin: 45;

- Trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em nghiện ma túy, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em lang thang, trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa: 527 em.

- Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là nữ: 2.576 em, chiếm tỷ lệ 42%; đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội và trợ cấp chế độ ưu đãi người có công: 2.540, chiếm 41,4%.

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có ở tất cả các xã, phường, thị trấn trong tỉnh, tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, các xã nghèo, vùng khó khăn cao hơn so với vùng đồng bằng và thành thị. Phần lớn số trẻ em này sống trong các gia đình nghèo, điều kiện kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn nên các em chưa được quan tâm, chăm sóc một cách đầy đủ.

II. Công tác trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn:

Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành và sự phối hợp có hiệu quả của các đoàn thể, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung và công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ngày càng được xã hội hóa. Ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được nâng cao. Kết quả cụ thể như sau:

1. Công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ các cấp, các ngành:

Công tác truyền thông về công tác chăm sóc, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được chú trọng bằng việc xuất bản các ấn phẩm truyền thông, lồng ghép các chương trình, các chuyên mục trên Đài truyền hình, truyền thanh, báo Phú Thọ như giới thiệu gương người tốt việc tốt, các mô hình, điển hình; lên án những hành vi xâm hại trẻ em. Thực hiện đa dạng hóa các kênh thông tin, theo dõi việc thực hiện công tác chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Bên cạnh đó công tác truyền thông, vận động xã hội được xây dựng phù hợp với từng địa phương, từng nhóm đối tượng, trong đó tập trung vào những địa phương có đông đối tượng, vùng đồng bào dân tộc ít người, miền núi, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Giúp cán bộ và người dân nhận thức rõ trách nhiệm, lợi ích khi trợ giúp trẻ em tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản đồng thời vận động gia đình, cộng đồng, xã hội tham gia chấp hành chính sách, pháp luật về trẻ em, tích cực xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và thân thiện đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

2. Công tác trợ giúp xã hội.

- Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại cộng đồng: Toàn tỉnh có 2.494 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được trợ cấp hàng tháng tại cộng đồng, bao gồm: trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo, trẻ em khuyết tật nặng và khuyết tật đặc biệt nặng với mức trợ cấp hàng tháng thấp nhất là 180.000 đồng, cao nhất là 450.000 đồng; có 304 trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi được các gia đình nhận nuôi dưỡng chăm sóc tại cộng đồng.

- Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trong các cơ sở bảo trợ xã hội: Hiện có 297 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được nuôi dưỡng, chăm sóc tại 6 cơ sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh. Trong những năm qua, công tác chăm sóc trẻ tại các cơ sở bảo trợ cơ bản được thực hiện tốt, trong đó tại Làng trẻ SOS Việt Trì nuôi dưỡng 142 mồ côi cả cha lẫn mẹ, các em có được môi trường sống tốt để học tập và rèn luyện, kết quả tính trong 5 năm (2009 – 2013) số trẻ đạt giải các kỳ thi học sinh giỏi: 03 giải quốc gia, 36 giải cấp tỉnh và 117 giải cấp thành phố; số trẻ khuyết tật được chăm sóc tại Trung tâm Bảo trợ trẻ mồ côi và tàn tật Việt Trì, Trung tâm Bảo trợ trẻ mồ côi và khuyết tật huyện Thanh Ba là 95 trẻ chủ yếu là trẻ khiếm thị, câm điếc và khuyết tật vận động, các trung tâm đã kết hợp cho trẻ vừa học văn hóa, chữa bệnh và học nghề, chủ yếu là các nghề thêu, may, cắt tóc gội đầu, làm tranh đá ...nhiều trẻ sau khi học tập tại trung tâm đã tìm được việc làm và có thu nhập ổn định . Năm 2012, UBND tỉnh đã quyết định nâng mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng cho đối tượng được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội công lập (mức nuôi dưỡng trẻ em mồ côi được điều chỉnh từ 360.000 đồng/tháng lên 850.000 đồng/tháng; mức nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật được điều chỉnh từ 450.000 đồng/tháng lên 1.000.000 đồng/tháng).

- Trợ giúp trẻ em khuyết tật chỉnh hình và phục hồi chức năng: Toàn tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc phẫu thuật miễn phí cho trẻ em khuyết tật về mắt, sứt môi, hở vòm miệng; chỉnh hình và cấp xe lăn cho trẻ có tật về vận động; vận động các hội, các tổ chức cá nhân trong nước và ở nước ngoài tổ chức thường xuyên các đợt khám và phục hồi chức năng miễn phí cho trẻ khuyết tật.

- Các hình thức hỗ trợ khác như: Cấp thẻ bảo hiểm y tế đầy đủ, kịp thời; chương trình học bổng cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được duy trì cùng với việc thực hiện chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập đã góp phần giúp các em tránh được nguy cơ bỏ học; các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể chăm lo việc tổ chức vui chơi, thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Tết nguyên đán, Tháng hành động vì trẻ em, Trung thu – Ngày trẻ em Phú Thọ ... đã động viên khích lệ trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nỗ lực vươn lên chăm ngoan, học giỏi, hòa nhập cộng đồng.

3. Triển khai mô hình điểm “Nhà xã hội trong trung tâm”.

Năm 2008, thực hiện chương trình thí điểm tổ chức lại việc quản lý, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại một số cơ sở bảo trợ xã hội theo mô hình “gia đình nhỏ”, Phú Thọ được chọn triển khai mô hình tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh. Sau khi xây dựng, mô hình đã được đưa vào vận hành, hoạt động hiệu quả góp phần tạo môi trường gia đình trong cơ sở bảo trợ xã hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đang sinh sống tại cơ sở. Tuy nhiên, về căn bản mô hình vẫn đặt trong cơ sở bảo trợ xã hội nên trẻ em ở đây vẫn bị tách biệt với cộng đồng, chưa tạo được một môi trường gia đình thay thế thực sự cho trẻ.

Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đã đạt được, công tác chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn gặp một số khó khăn hạn chế như: Ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, trình độ dân trí không đều dẫn đến việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đặc biệt đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn hạn chế; các biểu hiện lệch chuẩn về đạo đức, lối sống làm gia tăng trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi mất nguồn nuôi dưỡng. Hậu quả chiến tranh để lại còn khá nặng nề, môi trường sống bị ô nhiễm và bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học cũng gây nên sự gia tăng dị dạng, dị tật bẩm sinh ở trẻ em; Công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa sâu rộng, liên tục. Công tác phối hợp liên ngành chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, các quy định can thiệp, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chưa cụ thể. Một bộ phận gia đình, cộng đồng chưa thực sự quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Số lượng trẻ em chiếm tỷ lệ cao trong dân số, trong khi nguồn ngân sách và kinh phí vận động còn hạn chế, chưa đáp ứng với nhu cầu chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Phần thứ hai:

KẾ HOẠCH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN CHĂM SÓC TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN DỰA VÀO CỘNG ĐỘNG GIAI ĐOẠN 2014 – 2020

[...]