ỦY BAN NHÂN
DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------
|
Số: 208/KH-UBND
|
Đồng Tháp,
ngày 08 tháng
9 năm 2020
|
PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2021 – 2025
Tiếp
nhận Công văn số 4476/BKHĐT-HTX ngày 14/7/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021-2025, kế hoạch
năm 2021, UBND tỉnh Đồng Tháp xây dựng kế hoạch thực hiện như sau:
ĐÁNH
GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ (KTTT, HTX) GIAI ĐOẠN 2016
– 2020
Sự
phát triển của KTTT mà nòng cốt là HTX luôn đóng góp quan trọng vào từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong giai đoạn 2016-2020, KTTT còn
nhiều khó khăn nhưng vẫn luôn nỗ lực, tự đổi mới vươn lên và ngày càng thể hiện
đúng vai trò HTX, thể hiện được tư duy mô hình HTX kiểu mới, hạt nhân là hợp
tác, góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh
tranh ngày càng gay gắt.
1.
Tình
hình chung.
1.1.
Về
tổ hợp tác (THT)
-
Ước
tính đến 31/12/2020, toàn Tỉnh có 1.120 THT, tăng 28 THT so với thời điểm
31/12/2016. Trong đó có 971 THT nông nghiệp1,
tăng 3 THT; 70 THT tiểu thủ công nghiệp, tăng 15 THT; 03 THT lĩnh vực
xây dựng, tăng 01 THT; 40 THT lĩnh vực thương mại, tăng 34 THT; 22 THT lĩnh vực
vận tải, giảm 01 THT; 14 THT lĩnh vực khác, tăng 04 THT, so với năm 20162.
-
Tổng
số tổ viên tham gia THT ước tính đến 31/12/2020 là 51.000 tổ viên, tăng 376 tổ
viên so với năm 2016.
-
Doanh
thu bình quân của THT ước tính đến 31/12/2020 khoảng 1.430 tỷ đồng, tăng 70%;
lợi nhuận bình quân của THT là 140 triệu đồng, tăng 41%, so với năm 2016.
1.2. Về hợp tác xã
(HTX):
-
Ước
tính đến 31/12/2020, trên địa bàn tỉnh 214 HTX đang hoạt động(3)
(kế hoạch năm 2020 là 220 HTX), tăng 55 HTX so với năm 2016. Ước số
thành viên HTX đến thời điểm 31/12/2020 là 54.528 thành viên.
-
Hiện
nay, 100% HTX trên địa bàn Tỉnh chuyển đổi, đăng ký lại HTX theo Luật Hợp tác
xã năm 2012.
-
Số
thành viên HTX đến thời điểm 31/12/2020 tăng 4.033 thành viên so với thời điểm
2016, chủ yếu thành viên là cá nhân; số lượng thành viên mới tham gia vào HTX
giai đoạn 2016 – 2020 và số lao động làm việc trong khu vực HTX đến thời điểm
31/12/2020 đều tăng so với năm 2016.
-
Tổng
vốn số hoạt động 1.182,259 triệu đồng, trong đó tổng số vốn đăng ký mới tăng
404.259 triệu đồng so với năm 2016.
-
Doanh
thu bình quân của HTX là 3.650 triệu đồng (tăng 1.450 triệu đồng so với năm 2016); lợi
nhuận bình quân 400 triệu đồng/HTX (tăng 162 triệu đồng so với năm 2016); Thu
nhập bình quân 70 triệu đồng/năm/thành viên, lao động thường xuyên của HTX
(tăng28 triệu đồng so với năm 2016).
-
Tổng
số cán bộ quản lý 214 HTX là 550 người, trong đó người có trình độ sơ cấp,
trung cấp là 394 người – chiếm 71,64%, số lượng người có trình
độ cao đẳng, đại học trở lên là 156 người – chiếm 28,36%.
-
Riêng
đối với HTX nông nghiệp (180 HTX - chiếm tỷ lệ 84,11% tổng số HTX đang hoạt
động trên địa bàn Tỉnh) tăng 34 HTX so với năm 2016; giai đoạn 2016-2020, có 22
HTXNN được thành lập từ 23 mô hình Hội quán. Số lượng thành lập mới năm 2020 là
19 HTXNN, tăng 17 HTX so với năm 2016.
-
Doanh
thu bình quân 01 HTXNN là 2.070 triệu đồng, tăng 565 triệu đồng;lãi bình quân
01 HTXNN là 254 triệu đồng, tăng 18 triệu đồng; thu nhập bình quân của 01 lao
động thường xuyên là 48 triệu đồng/năm, tăng 28 triệu đồng so với năm 2016.Tổng
số cán bộ quản lý 180 HTXNN là 760 người, trong đó: 108 người có trình độ sơ
cấp, trung cấp - chiếm 15%; 115 người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên -
chiếm 16%.
2. Tình hình
phát triển KTTT theo ngành, lĩnh vực:
2.1.
Lĩnh
vực nông nghiệp - thủy sản (HTXNN): Có 180 HTX, chiếm tỷ
lệ 84,11%.
-
Trung
bình mỗi huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn Tỉnh đều có HTXNN đang hoạt
động. Trong đó, huyện Tam Nông có số lượng nhiều nhất với 31 HTXNN, Thành phố
Sa Đéc có ít số lượng nhất với 03 HTXNN.
-
Trong
05 năm qua, số HTXNN hoạt động hiệu quả tăng dần qua từng năm. Một số HTXNN đã
chú trọng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tích cực tham gia liên kết
với doanh nghiệp để cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm cho thành viên. Xuất
hiện nhiều mô hình hay và cách làm mới4.
2.2.
Lĩnh
vực tín dụng: 17 QTDND, chiếm tỷ lệ 7,94%. Nhìn chung, các QTDND hoạt
động ổn định, vốn huy động tiền gửi, dư nợ đều tăng, thu nhập lớn hơn chi phí,
nợ xấu giảm và ở mức thấp. Hoạt động của các QTDND đã góp phần hạn chế hoạt
động “Tín dụng đen” trên địa bàn nông thôn.
2.3.
Lĩnh
vực vận tải: 11 HTX đang hoạt động, chiếm tỷ lệ 5,14%. Các HTX vận tải
hoạt động mạnh về loại hình vận tải hành khách. Cán bộ quản lý HTX được đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng tốt trong vận chuyển hành khách; một số HTX có đầu
tư trang thiết bị, áp dụng công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực dịch vụ5.
2.4.
Lĩnh
vực tiểu thủ công nghiệp: 04 HTX đang hoạt động, chiếm tỷ lệ 1,87%.
Chất lượng các HTX từng bước được nâng lên, quy mô sản xuất được mở rộng, góp
phần giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn.
2.5.
Lĩnh
vực thương mại - dịch vụ: 02 HTX đang hoạt động, chiếm tỷ lệ 0,93%. HTX
thực hiện hoạt động quản lý khai thác chợ và hoạt động cung cấp nước sạch, vệ
sinh mô trường. Số lượng thành viên HTX không nhiều, vốn góp ít, khả năng cạnh
tranh thấp.
3. Đánh giá
tác động HTX, THT đến thành viên, kinh tế hộ thành viên.
-
HTX
giúp cho kinh tế hộ những việc mà kinh tế hộ không làm được. HTX phát huy được
vai trò: tập hợp, vận động thay đổi cách nghĩ, cách làm cho bà con nông dân,
ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; góp phần tích cực thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý. Bên cạnh đó, HTX là cầu nối tạo ra
liên kết dọc, khâu trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng, tiếp nhận
thông tin thị trường, đầu mối đảm nhận khâu thu mua và đưa hàng hóa đến thị
trường.
-
Phát
triển kinh tế của HTX hỗ trợ một phần cho kinh tế hộ phát triển, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần vào việc phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, làm nền tảng thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới.
4.
Một
số mô hình hoạt động hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị (Chi
tiết xem Phụ lục 01)
1.
Kết
quả triển khai Luật và các văn bản hướng dẫn6
2.
Tình
hình triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTX.
2.1. Chính
sách hỗ trợ chung đối với các HTX
a)
Chính
sách đào tạo, bồi dưỡng: từ năm 2016 - 2020, đã tổ chức 84 lớp tập
huấn và đào tạo bồi dưỡng; 01 chuyến học tập kinh nghiệm; 01 cuộc tọa đàm cho
cán bộ các hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, cán bộ ngành nông nghiệp trên
địa bàn tỉnh, có trên 2.784 người tham dự. Tổng kinh thực hiện 2.600 triệu
đồng.
b)
Chính
sách hỗ trợ cán bộ trẻ về làm việc tại HTX
-
Biệt
phái 15 viên chức làm Phó Giám đốc HTX: thực hiện biệt phái 15 viên chức từ các
trạm, trại của ngành nông nghiệp về hỗ trợ hoạt động cho 15 HTXNN trên địa bàn
tỉnh trong thời gian 03 năm (2015-2017). Kết quả bước đầu đã tạo được yếu tố
tích cực trong việc hỗ trợ nhân sự trong HTXNN, phát huy nguồn nhân lực trẻ
trong nền kinh tế tập thể.
-
Hỗ
trợ đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng về làm việc có thời hạn tại
HTX: thực hiện theo Nghị quyết số 176/NQ-HĐND ngày 18/7/2018 của HĐND Tỉnh7.
Hỗ trợ 79 lao động về làm việc tại 79 HTXNN (trong đó có 09 HTXNN kiểu mới);
mức hỗ trợ tương đương mức lương tối thiểu vùng cho 01 lao động/số tháng lao
động/01 HTX; nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Trung ương (vốn Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới) và ngân sách địa phương; thời gian hỗ
trợ từ tháng 8/2018 đến ngày 31/12/2020. Đến nay, triển khai chính sách đến các
HTX biết và thực hiện nhận hỗ trợ; kết quả có 64/79 HTXNN thuê được lao động
(trong đó có 09 HTX kiểu mới); các HTX còn lại đang làm thủ tục thuê lao động
để được hỗ trợ. Năm 2020 có 60/79 HTXNN thuê được lao động.
c)
Chính
sách hỗ trợ ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới: từ nguồn vốn
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hỗ trợ các HTX ứng dụng
khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất giai đoạn 2016- 2020, hỗ trợ
cho 70 HTXNN mua máy móc, thiết bị phục vụ phát triển sản xuất, tổng số 337 máy
móc, thiết bị; Tổng kinh phí hỗ trợ là 8.642 triệu đồng (trong đó năm 2020 hỗ
trợ 06 HTX mua máy móc, thiết bị với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.555 triệu đồng;
05 HTX thực hiện theo chuỗi giá trị, kinh phí hỗ trợ là 1.630 triệu đồng).
d)
Chính
sách hỗ trợ thành lập mới: giai đoạn 2016-2020 thành lập mới 106 HTXNN.
Trong đó, có 09 HTX được thành lập từ nguồn vốn Tái cơ cấu ngành nông nghiệp,
với tổng kinh phí gần 724 triệu đồng. Trong đó năm 2020 hỗ trợ thành lập 03
HTXNN từ nguồn vốn MTQG XD Nông thôn mới, với kinh phí 570 triệu đồng (thành
lập HTX từ THT gắn với sản phẩm OCOP); giải thể 40 HTXNN.
2.2. Chính
sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTXNN
a)
Hỗ
trợ xây dựng cơ sở hạ tầng
-
Thực
hiện Nghị định 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về việc quản lý sử
dụng đất trồng lúa: UBND tỉnh Đồng Tháp tiến hành hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ vùng sản xuất quy mô lớn cho 09 HTX tham gia thí điểm HTX kiểu mới với
các danh mục như: kiên cố hóa kênh mương, công trình điều tiết, nạo vét nội
đồng, cống,… với tổng kinh phí trên 94.000 triệu đồng.
-
Hỗ
trợ hợp tác xã xây dựng cơ sở hạ tầng giai đoạn 2011-2020: Năm 2019 trình UBND
Tỉnh hỗ trợ 07 HTX xây dựng từ nguồn vốn mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới với tổng mức đầu tư là 6.555 triệu đồng8. Năm 2020, hỗ trợ 25 HTX
với tổng mức đầu tư 19.750 triệu đồng. Trong đó, Trung ương hỗ trợ 15.800 triệu
đồng, HTX đối ứng 3.950 triệu đồng (cơ chế hỗ trợ là Trung ương sẽ hỗ trợ 80%
và HTX đóng góp 20% tổng mức đầu tư của dự án).
b)
Hỗ
trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp thực hiện theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg
ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ: đến tháng 02/2020, dư
nợ tại các ngân hàng là 172 tỷ đồng; với 298 máy GĐLH, 282 máy cày, 71 máy xới
và 145 máy móc thiết bị khác phục vụ sản xuất nông nghiệp còn dư nợ; Luỹ kế
doanh số cho vay từ năm 2016 đến nay là 552,49 triệu đồng9.
c)
Chính
sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của HTX với doanh nghiệp
-
Giai
đoạn 2016-2018, thực hiện theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của
Thủ tướng Chính phủ về Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản
xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn: Toàn tỉnh có 44 đơn vị
được chấp thuận chủ trương xây dựng dự án cánh đồng lớn (40 Hợp tác xã, 01 tổ
hợp tác, 03 công ty) với tổng diện tích 92.758 ha; trong đó: 03 đơn vị đã được
UBND Tỉnh phê duyệt phương án (Công ty Lương thực Đồng Tháp; Công ty Cổ phần
Sài Gòn Lương thực; và HTX DVNN Thuận Tiến);
-
Giai
đoạn 2018-2020, thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính
phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết gắn sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp10. Theo đó, Hội đồng nhân dân Tỉnh ban
hành Nghị quyết số 199/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2019, UBND Tỉnh ban hành Kế
hoạch số 242/KH-UBND, ngày 28/10/2019 về thực hiện Nghị quyết số
199/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 của Hội đồng nhân dân Tỉnh. Đến nay, chưa có
tổ chức, cá nhân nào có đăng ký dự án/ phương án hỗ trợ liên kết trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
3. Công tác
quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX:
3.1. Công tác
thành lập và kiện toàn bộ máy QLNN về HTX.
a)
Cấp
Tỉnh:
-
Sở
Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối tham mưu, giúp UBND Tỉnh trong công tác
quản lý về kinh tế hợp tác. Sở Kế hoạch và Đầu tư không thành lập Phòng Doanh
nghiệp, Kinh tế tập thể và tư nhân mà giao nhiệm vụ về kinh tế tập thể cho
Phòng Đăng ký kinh doanh, chỉ có 01 cán bộ chuyên trách. Là cơ quan cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Liên hiệp HTX và Quỹ tín dụng nhân dân.
-
Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tham mưu quản lý nhà nước về kinh tế tập
thể trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc bố trí sắp xếp cán bộ theo dõi KTTT, HTX
của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt tại Phòng Kinh tế hợp tác và
trang trại trực thuộc Chi cục Phát triển nông thôn, với 05 cán bộ.
-
Các
sở, ngành có liên quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về KTTT theo ngành,
lĩnh vực mình quản lý.
b)
Cấp
huyện: Phòng
Tài chính-Kế hoạch, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan tham
mưu UBND huyện quản lý nhà nước về kinh tế tập thể trên địa bàn huyện. Cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đăng ký đăng ký kinh doanh cho HTX là Phòng Tài chính – Kế
hoạch; việc phân công cán bộ theo dõi về kinh tế hợp tác ở các huyện, thị xã,
thành phố đều là kiêm nhiệm.
4. Hợp tác
quốc tế về KTTT
-
Thông qua Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) do Ngân hàng Thế giới
tài trợ, các HTX/Tổ chức nông dân được tập huấn nội dung: “03 giảm 03 tăng,
01 phải 05 giảm” trong sản xuất; 07 HTX được hỗ trợ trang thiết bị sản xuất
lúa như máy cấy, máy phun hạt; 05 HTX được hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất
lúa v.v.
-
Tỉnh
tiếp tục triển khai dự án Phát triển chuỗi giá trị lúa gạo bền vững và bao trùm
nông hộ nhỏ, giai đoạn 2018 - 2021 (phối hợp với Tổ chức Rikolto) và dự án
“Liên kết thị trường cho nông hộ sản xuất nhỏ - Sáng kiến lúa gạo Châu Á giai
đoạn 2 (BRIA2) (phối hợp với Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn và Tổ
chức GIZ).
1. Tồn tại, hạn chế:
-
Về
tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách: các chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế hợp tác còn chồng chéo thiếu đồng bộ, khó tiếp cận, chưa có tính
chiến lược.
-
Về
năng lực nội tại HTX: Năng lực nội tại các hợp tác xã nhìn chung còn hạn chế về
cán bộ quản lý, điều hành và cả về cơ sở vật chất, nguồn vốn. Việc xây dựng
phương án sản xuất kinh doanh còn hạn chế nên không huy động được vốn
của thành viên hoặc từ các Tổ chức tín dụng, không mở rộng quy mô và hoạt động
dịch vụ nên lợi ích mang lại cho thành viên không nhiều.
-
Về
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KTTT, HTX: công tác phối hợp báo cáo
HTX ở địa phương thời gian qua thường xuyên chậm trễ, chưa đầy đủ, chưa thực sự
phản ánh đúng tình hình thực tế về KTTT ở địa phương, dẫn tới khó khăn cho Đơn
vị quản lý nhà nước trong công tác tổng hợp, theo dõi cũng như tham mưu phát
triển KTTT trên địa bàn tỉnh.
3. Nguyên
nhân:
3.1. Về pháp
luật, cơ chế, chính sách
-
Có
nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ từ phía Nhà nước cho HTX. Tuy nhiên, chỉ có một
số chính sách được thực hiện mang tính khả thi, số còn lại còn hạn chế so với
nhu cầu thực tế. Mặt khác, một số chính sách không có nguồn kinh phí riêng để
thực hiện, chủ yếu là kinh phí lồng ghép vào các Chương trình, dự án nên chưa
đáp ứng hết nhu cầu hỗ trợ của các HTX11.
-
Chính
sách hỗ trợ cho HTX được ban hành nhiều nhưng chậm hướng dẫn thực hiện, chậm bổ
sung sửa đổi nên khi triển khai thực hiện còn nhiều chồng chéo, vướng mắc, khó
thực thi12.
3.2. Về bản
thân HTX
-
Đa
số các HTX thiếu vốn do vốn góp của thành viên còn hạn chế. Bên cạnh đó, do HTX
không có tài sản nên việc tiếp cận với các nguồn vay của các ngân hàng thương
mại và tổ chức tín dụng hết sức khó khăn. Vì thế không mở thêm hoạt động dịch
vụ và quy mô sản xuất, dẫn đến lợi ích mang lại cho thành viên chưa cao.
-
Đa
phần các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay chỉ tập trung hoạt động các dịch vụ
đầu vào13, chưa quan tâm đến các dịch vụ đầu ra14;
phần lớn HTX chưa liên kết được với các doanh nghiệp do tính liên kết trong
nông dân chưa cao, việc ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng giữa HTX và
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, chưa định được giá trị hợp đồng, khi có tranh
chấp thì thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết nên đa số sản phẩm của thành viên
phải tiêu thụ qua thương lái, giá cả bấp bênh, không ổn định và lợi nhuận không
cao.
-
Phần
lớn các HTX đều chưa có trụ sở làm việc, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, các trang
thiết bị, máy móc còn lạc hậu, công suất thấp chưa đáp ứng hết nhu cầu hoạt
động sản xuất của HTX nên kết quả sản xuất kinh doanh còn thấp
3.3. Về thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về KTTT, HTX:
Hệ
thống quản lý Nhà nước cấp cơ sở tuy cơ bản được củng cố nhưng đa phần cán bộ
là kiêm nhiệm nên công tác quản lý chưa thực sự chặt chẽ.
Công
tác tuyên truyền về kinh tế hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu nhưng chưa mang
tính liên tục, chưa tạo sự chuyển biến nhanh trong nhận thức nhất là cán bộ,
đảng viên và phần lớn quần chúng nhân dân về vị trí, vai trò cũng như chức năng
và lợi ích của kinh tế hợp tác trong bối cảnh hội nhập.
KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX GIAI ĐOẠN 2021 – 2025 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2021
1.
Thuận
lợi
-
Xu
thế gắn kết giữa doanh nghiệp với HTX để xây dựng vùng nguyên liệu, phát triển
cơ sở sản xuất, chế biến nông sản ngày càng rõ nét.
-
Cơ
chế hợp tác công tư (PPP) trong nông nghiệp tạo điều kiện thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư phát triển nông nghiệp, gắn kết với các HTX.
2. Khó khăn
-
Phát
triển KTTT vẫn còn nhiều khó khăn: vốn ít, kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, trình độ
cán bộ quản lý còn hạn chế; thu nhập của HTX và thành viên không nhiều; sản
phẩm cung cấp thị trường chất lượng chưa cao, khả năng cạnh tranh với các thành
phần kinh tế khác còn hạn chế.
-
Một
số HTX và người dân chưa hoàn toàn hiểu đúng về bản chất và giá trị HTX. Một số
HTX còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
-
Giám
sát và hoàn thiện hoạt động HTX theo Luật HTX năm 2012.
-
Tiếp
tục khuyến khích thành lập mới HTX, THT; khuyến khích thành lập mới đối với các
HTX có phương hướng và cơ sở phát triển tốt, đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
-
Nâng
cao năng lực, hiệu quả hoạt động của HTX, THT. Tăng cường năng lực cạnh tranh,
tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm.
-
Tập
trung củng cố và hoàn thiện hoạt động các HTXNN mới thành lập theo Quyết định
461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
-
Phát
triển Hội quán, HTXNN theo nhu cầu thành lập của nhóm hộ nông dân, Hội quán như
cấp mã vùng, mã code gắn với ngành hàng, vùng trồng phục vụ cho việc tiêu thụ
sản phẩm.
-
Tiếp
tục giải thể các HTX yếu kém, không hoạt động hoặc hoạt động không đúng quy
định.
-
Nâng
cao hiệu quả đóng góp của khu vực kinh tế tập thể vào tăng trưởng kinh tế
chung, bền vững, góp phần vào giảm tỷ lệ hộ nghèo, tạo động lực xây dựng thành
công Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới.
-
Đóng
góp vào việc cải thiện đời sống thành viên và cộng đồng. Tương hỗ với kinh tế
hộ, cộng đồng dân cư, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, chia sẻ lợi ích lâu dài, cùng
có lợi.
-
Tập
trung củng cố, kiện toàn các HTX đủ mạnh để thực hiện tốt vai trò tổ chức lại
sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng, thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, thay đổi quy trình canh tác theo hướng giảm giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm gắn với truy xuất nguồn gốc, tạo điều kiện hình thành những tổ
hợp nông - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao.
-
Phát
triển HTX quy mô lớn, phát triển mới các HTX trên nền tảng Hội quán, tạo điều
kiện cho kinh tế hộ phát triển có hiệu quả trên các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ. Thực hiện có hiệu quả chương trình khởi nghiệp và chương trình
mỗi xã một sản phẩm (OCOP).
1.
Hợp
tác xã
-
Phấn
đấu đến năm 2021 có 226 HTX, tổng số thành viên 54.600 thành viên. Doanh thu
bình quân 01 HTX là 2.173 triệu đồng/năm. Lãi bình quân 01 HTX là 267 triệu
đồng/năm. Thu nhập bình quân của 01 lao động thường xuyên trong HTX là 70 triệu
đồng/năm.
-
Riêng
đối với HTXNN, phấn đấu đến năm 2021 có 187 HTXNN, tổng số thành viên 29.120
thành viên. Thu nhập bình quân của 01 lao động thường xuyên trong HTXNN là 50
triệu đồng/năm.
-
Đến
năm 2025, tuyên truyền, vận động, tư vấn, hỗ trợ phấn đấu có khoảng 254 HTX
hoạt động hiệu quả với 55.000 thành viên. Riêng HTX NN phấn đấu đến năm 2025 có
21515 HTXNN; 100% hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo đúng Luật
hợp tác xã 2012; tổng số thành viên HTX là 33.600 thành viên.
-
Tỷ
lệ cán bộ quản lý HTX có trình độ sơ, trung cấp trên 15%/năm. Tỷ lệ cán bộ quản
lý HTX có trình độ cao đẳng, đại học trên 20%/năm.
-
Doanh
thu bình quân 01 HTX đến năm 2025 là 2.641 triệu đồng/năm, bình quân tăng
5%/năm.
-
Lãi
bình quân 01 HTX đến năm 2025 là 325 triệu đồng/năm, bình quân tăng 5%/năm.
-
Thu
nhập bình quân của 01 lao động thường xuyên trong HTX đến năm 2025 là 85 triệu
đồng/năm. Đối với HTXNN là 61 triệu đồng/năm, bình quân tăng 5%/năm.
2. Tổ hợp tác
(THT nông nghiệp):
-
Dự
kiến đến năm 2021, toàn Tỉnh có 1.004 THT nông nghiệp. Tổng số tổ viên tham gia
THT nông nghiệp là 49.768 tổ viên. Doanh thu bình quân 510 triệu đồng/THT; Lãi
bình quân 138 triệu đồng/THT.
-
Phấn
đấu đến năm 2025 đạt các chỉ tiêu sau:
+
Về số lượng THT và tổ viên: Có 1.146 THT nông nghiệp (bình quân tăng 3,5%/năm),
số tổ viên THT nông nghiệp là 51.789 tổ viên (bình quân tăng 1%/năm).
+
Về kết quả hoạt động kinh doanh: Doanh thu bình quân là 552 triệu đồng, tăng
2%/năm và lợi nhuận bình quân 01 THTNN là 150 triệu đồng, tăng 2%/năm.
1.
Về
công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về KTTT, HTX.
Tiếp
tục tuyên truyền các Nghị quyết của Trung ương về phát triển KTTT, HTX và Luật
HTX năm 2012, các văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan
nhằm thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị, Nhân dân về nguyên tắc, bản
chất và giá trị của HTX.
-
Đối
với cán bộ quản lý nhà nước KTTT, HTX: Tuyên truyền về chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTT, trong đó nòng cốt là HTX để nắm chắc
những nội dung cơ bản của Luật HTX, cơ chế chính sách; phương pháp tổ chức chỉ
đạo, phối hợp với các tổ chức đoàn thể để hỗ trợ phát triển HTX.
-
Đối
với cán bộ quản lý HTX: Tập trung vào các nội dung như định hướng phát triển
HTX của Nhà nước; kiến thức, kỹ năng về lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh
doanh; kỹ năng về quản trị doanh nghiệp, quản trị HTX; thông tin về thị trường,
kinh nghiệm về xây dựng các phương án, hợp đồng liên kết theo chuỗi giá trị.
-
Đối
với người nông dân: Tuyên truyền làm rõ sự cần thiết phải hợp tác, liên kết với
nhau trong sản xuất nông nghiệp, tính tất yếu phải tham gia HTX; tuyên truyền
chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tế nông nghiệp.
2. Về hoàn
thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách
-
Cấp
ủy các cấp chỉ đạo thực hiện Kết luận số 70-KL/TW09/3/2020 của Bộ Chính trị, về
việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên cơ sở tập trung thực hiện
thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 của Tỉnh,
các nhiệm vụ giải pháp tại Kế hoạch phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021 - 2025.
-
Ban
hành văn bản cụ thể hóa Chương trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021
- 2025; các Chương trình, Đề án, Kế hoạch được các Bộ, ngành Trung ương triển
khai.
-
Tiếp
tục ban hành các chính sách đặc thù của địa phương để hỗ trợ phát triển HTX
trong giai đoạn 2021 – 2025 theo đúng quy định.
3. Về nâng
cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX, gắn liền với công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong phát triển KTTT,
HTX.
Kiện
toàn bộ máy quản lý nhà nước về KTTT, HTX ở các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cập
nhật kiến thức thường xuyên cho đội ngũ này về KTTT, HTX, trong đó:
-
Cấp
Tỉnh: Bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX ở
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Chi cục Phát
triển nông thôn).
-
Cấp
huyện: Bố trí cán bộ chuyên trách ở Phòng Nông nghiệp và PTNT hoặc Phòng Tài
chính - Kế hoạch để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về KTTT,
HTX.
-
Cấp
xã: Phân công rõ trách nhiệm của cán bộ chuyên môn để trực tiếp tham mưu cho
Chủ tịch UBND cấp xã trong việc tham mưu quản lý nhà nước về KTTT, HTX.
4. Về Nâng
cao hiệu quả hoạt động của các HTX, xây dựng mô hình hợp tác xã hiệu quả và
tổng kết mô hình
-
Từng
bước mở rộng quy mô hoạt động của HTX bằng cách kết nạp thêm thành viên hoặc
hợp nhất, sáp nhập khi có đủ điều kiện (có sự đồng thuận của thành viên, phù
hợp với năng lực quản trị của cán bộ quản lý HTX).
-
Tiếp
tục giải thể các HTX yếu kém, không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả.
-
Tiếp
tục thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ lao động trẻ tốt nghiệp đại học,
cao đẳng làm việc có thời hạn cho HTX nông nghiệp.
-
Hỗ
trợ, tạo điều kiện cho các HTX tham gia có hiệu quả các hoạt động xúc tiến
thương mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp,
HTX trong và ngoài tỉnh để nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh,
tiếp cận khoa học và công nghệ.
-
Xây
dựng và nhân rộng mô hình HTX kiểu mới gắn với xây dựng vùng chuyên canh;
chuyển dần từ hoạt động dịch vụ đơn thuần sang tổ chức sản xuất theo chuỗi giá
trị, theo hướng an toàn, xây dựng nhãn hiệu sản phẩm, truy xuất được nguồn gốc.
-
Phối
hợp, lồng ghép các nguồn vốn hỗ trợ phát triển KTTT, HTX để hỗ trợ trực tiếp
cho các HTX trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất; hỗ trợ
đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho các HTX; hỗ trợ xây dựng mô hình HTX ứng dụng công
nghệ cao gắn với liên kết theo chuỗi giá trị.
-
Sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ và tiếp tục huy động các nguồn lực và sự hỗ
trợ của các tổ chức quốc tế trong việc thúc đẩy phát triển KTTT.
5. Phát triển
Hội quán, phát triển HTXNN từ mô hình Hội quán
-
Để
Hội quán hoạt động có hiệu quả trước hết phải tổ chức sinh hoạt với nội dung
thực sự thiết thực đối với các hội viên Hội quán. Mỗi lần sinh hoạt hội viên
phải
được nói những điều mình suy nghĩ và nghe những điều hội viên đáng quan tâm.
-
Thực
hiện tốt công tác tuyên truyền sâu rộng để nâng cao chất lượng hoạt động các
hội quán, vận động hội viên và nhân dân nâng cao nhận thức về chuyển đổi sản
xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang kinh tế nông nghiệp, tăng cường liên kết sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm, tiếp tục theo dõi, hỗ trợ, giúp đỡ cho hoạt động các
hội quán và phát triển thêm các hội quán nếu đủ điều kiện.
-
Chính
quyền các cấp chỉ đạo các ngành chuyên môn tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn,
cập nhật kiến thức về sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin, khoa
học kỹ thuật tiên tiến vào quy trình sản xuất, liên kết cho hội viên các hội
quán; quan tâm giới thiệu các công ty, doanh nghiệp hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
của hội quán.
-
Đẩy
mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá sản phẩm nông sản của Hội
quán. Tăng cường mối liên kết 04 nhà trên cơ sở hài hòa lợi ích của các bên
tham gia trong chuỗi giá trị sản xuất theo quy luật thị trường để hàng hóa, nông sản
của Hội quán phát triển bền vững.
-
Lồng
ghép việc tuyên truyền về Luật HTX, các chính sách liên quan đến HTX trong các
buổi sinh hoạt thường kỳ của Hội quán. Để các thành viên Hội quán hiểu rõ về bản chất,
vai trò, lợi ích khi tham gia HTX từ đó tự vận động thành lập HTX từ nền tảng
mô hình Hội quán.
6. Về huy
động nguồn lực xã hội để phát triển KTTT, HTX
-
Tiếp
tục triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, HTX của Trung
ương cũng như của địa phương.
-
Huy
động, lồng ghép các nguồn vốn để hỗ trợ phát triển KTTT, HTX, tranh thủ sự hỗ
trợ, đầu tư từ các Tổ chức Phi chính phủ, các Dự án tài trợ cũng như tạo điều
kiện cho các HTX được tham gia các chương trình kinh tế - xã hội của địa
phương.
VI. PHÂN
CÔNG THỰC HIỆN: (Chi tiết xem Phụ lục 08)
Nơi nhận:
-
BKHĐT;
- CT, PCT/UBND Tỉnh;
- SNNPTNT; SKHĐT;
- Liên minh HTX Tỉnh;
- Lãnh đạo VP/UBND Tỉnh;
- UBND huyện, thị xã, thành phố
- Lưu: VT. NC/KT. H.A (16 bản).
|
TM. ỦY BAN
NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn
Thanh Hùng
|
1. HTXNN Tân
Bình, xã Tân Bình, huyện Thanh Bình:
-
Thành
lập năm 2003. Có 1.034 thành viên. Tổng số lao động trong HTX gồm 78 người.
Diện tích phục vụ 668 ha. Hoạt động 08 dịch vụ (Dịch vụ bơm nước, cắt, sấy lúa,
phân bón, tín dụng, làm đất, giống cây trồng, nước sạch)
-
Vốn
điều lệ HTX 1.031 triệu, vốn góp 937 triệu. vốn hoạt động 26.001 triệu đồng.
Doanh thu năm 2019 là 6.702 triệu đồng. Phân phối thu nhập (lợi nhuận) 958
triệu. HTX thực hiện 01 bộ máy vừa quản lý vừa điều hành. HTX có xây dựng kế
hoạch thực hiện tuần, tháng; phân công cụ thể từng thành viên trong HĐQT, bộ
phận chuyên môn.
-
HTX
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất như mô hình nhà lưới ươm cây giống (cà
chua, cây ớt), đưa công nghệ đưa công nghệ tưới nhỏ giọt phục vụ tưới tiêu, sử
dụng giống cà gốc ghép. Mô hình này được thực hiện trên diện tích 1.000m2 nhà
kính của HTX. Ươm cây giống chất lượng cao cung cấp cho toàn vùng Cù lao huyện
Thanh Bình và các huyện trong Tỉnh được hơn 2,2 triệu cây. Đây là mô hình sản
xuất cây giống hoa màu (ớt) tiêu biểu ở đồng bằng sông Cửu Long được nông dân
đánh giá cao thời gian qua. Thực hiện sấy ớt bằng nhà sấy sử dụng năng lượng
mặt trời.
-
HTX
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp đầu vào như: dịch vụ phân bón và
thuốc bảo vệ thực vật, HTX luôn quan tâm giảm lợi nhuận để hỗ trợ cho thành
viên nghèo về lãi suất, khâu làm đất và sau thu hoạch…; cung cấp vật tư nông
nghiệp cho bà con thành viên với giá rẻ hơn thị trường bên ngoài. Ngoài ra, HTX
đã xây dựng kho 1.000 tấn, lò sấy với công suất 40 tấn/lần sấy, phát triển thêm
dịch vụ tạm trữ, sấy lúa cho thành viên. Hệ thống tưới tiêu được bê tông hóa
với tổng chiều dài gần 2 km.
-
HTX
tạo việc làm cho thành viên, người lao động tại địa phương, nâng cao thu nhập
đời sống, góp phần xây dựng nông thôn mới. HTXNN Tân Bình là 01 trong 09 HTX
được chọn xây dựng HTX kiểu mới theo Quyết định số 445/QĐ- TTg của Thủ tướng
Chính phủ.
2. HTX DVNN
Bình Thành xã Bình Thành, huyện Lấp Vò
-
Thành
lập năm 1989 vốn điều lệ 1.115 triệu đồng, có 1.814 thành viên. Tổng số lao
động trong HTX gồm 55 người. Là HTX quy toàn xã. Diện tích phục vụ tưới tiêu là
1.150 ha, trong đó chia ra sản xuất lúa 3 vụ là 950 ha; 2 lúa 1 màu là 200 ha.
Tổng vốn hoạt động 10.706 triệu đồng. Doanh thu năm 2019 là 22.723 triệu đồng.
Phân phối thu nhập (lợi nhuận) 764 triệu đồng.
-
HTX
hoạt động với 13 dịch vụ phục vụ trực tiếp cho hộ thành viên hoạt động ổn định,
gồm có: Dịch vụ tưới tiêu, điện nông thôn (toàn xã), tín dụng nội bộ, cung cấp
vật tư nông nghiệp trả chậm, sản xuất cung cấp lúa giống, mua bán gạo, điện gia
dụng, khuyến nông, bảo vệ thực vật , tổ chức liên kết hỗ trợ thành viên tiêu
thụ sản phẩm, nạo vét kênh thủy lợi nội đồng (Kobe), bán giống cây trồng và
sản xuất nước đóng bình đóng chai.
-
HTX
thực hiện tốt chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và
bảo hiểm tai nạn 100% theo quy định và các chế độ đãi ngộ khác theo Bộ Luật Lao
động quy định; những cán bộ lớn tuổi (trên 60 tuổi) HTX tiếp tục hỗ trợ 100%
BHYT và bảo hiểm tai nạn con người.
-
HTX
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất như: Sử dụng máy xạ lúa, máy phun
thuốc, phun phân tự động, máy gặt đập liên hợp trong thu hoạch lúa, chiếm tỷ lệ
80% trên tổng diện tích. Nhiều đề tài, dự án, mô hình trình diễn được áp dụng
trên lúa, hoa màu, cây ăn trái, gia súc, thủy sản; cụ thể như: Mô hình sản xuất
lúa theo quy trình IPM, 1 phải 5 giảm,… Hầu hết các mô hình đều đem lại hiệu
quả kinh tế khá cao, góp phần tăng năng suất, quản lý hiệu quả bệnh, dịch bệnh
và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giúp người dân giảm chi phí và tăng thêm thu
nhập.
-
Về
hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho thành viên: Diện tích lúa xây dựng vùng lúa chất
lượng cao 256 ha, có 81 ha sản xuất lúa an toàn, 30 ha sản xuất lúa giống cung
cấp cho thành viên của Hợp tác xã. Về thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ
nông sản ở HTX rất đa dạng: HTX – Doanh nghiệp – Thương lái. Tất cả các diện
tích của HTX đều được tiêu thụ thông qua các doanh nghiệp, qua đó đã mang lại
lợi nhuận ổn định cho thành viên HTX.
-
Bên
cạnh HTX còn có Hội quán sinh hoạt đa dạng các lĩnh vực như kỹ thuật chăm sóc
cây có múi, về chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật, xử lý ra hoa xoài trái
vụ, tỉa cành tạo tán, bón vôi, xử lý ra hoa trái vụ,… với diện tích là 127,5ha
đất canh tác chủ yếu là xoài và cây có múi. HTX DVNN Bình Thành là 01trong 09
HTX được chọn xây dựng HTX kiểu mới theo Quyết định số 445/QĐ- TTg của Thủ
tướng Chính phủ.
3. Một số mô
hình khác:
-
HTX
DVNN Thắng Lợi, xã Mỹ Đông, huyện Tháp Mười, thực hiện mô hình ruộng lúa bờ
hoa, sản xuất lúa theo chuẩn SRP vụ Đông Xuân năm 2019- 2020 liên kết tiêu thụ
với tập đoàn Phoenix 19 ha đến vụ Hè Thu năm mở rộng diện tích sản xuất theo
chuẩn SRP trên 100 ha.
-
HTX
giống Định An đã nghiên cứu, lai tạo và cho ra đời nhiều giống lúa đặc sản,
chất lượng cung cấp cho thị trường, trong đó nội bật là các giống: Ngọc đỏ
hương dứa, LD2021, Tím sen, Tím sữa, ND3, LV6, dòng phân li OM384... Hiện các
giống lúa do HTX sản xuất đều cho năng suất cao, bán được giá, được nhiều nông
dân trong và ngoài tỉnh ưa chuộng. Cá nhân Giám đốc HTX-ông Nguyễn Anh Dũng
được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tặng danh hiệu “Nhà khoa học của Nhà
nông” lần thứ nhất năm 2018.
-
HTX
nông sản sạch Vĩnh Thới (10,34 ha) ký hợp đồng với tập đoàn VinGroup liên kết
tiêu thụ quýt đương, cam xoàn, cam sành, mận An Phước, mận đá đường, ngoài việc
liên kết tiêu thụ cho thành viên HTX còn liên kết tiêu thụ cho các hộ dân trong
vùng theo hình thức liên kết (nông dân phải sản xuất theo quy chuẩn an toàn).
Bên cạnh đó HTX thực hiện mô hình vườn du lịch sinh thái vào trong sản xuất.
-
HTX
Xoài Mỹ Xương với Mô hình “Cây xoài nhà tôi” thực hiện phương thức giao dịch
thương mại điện tử, đã đưa Xoài Cao Lãnh ra thị trường cả nước. Qua gần 2 năm
đi vào hoạt động, mô hình đã bán ra tổng cộng 224 cây xoài các loại, với giá
bán dao động từ 03 triệu đồng/cây trở lên, tùy theo tiêu chuẩn cây; tổng số
tiền thu được đem về cho thành viên trên 830 triệu đồng. Từ mô hình “Cây xoài
nhà tôi” các HTXNN khác đã phát triển mô hình “Ruộng nhà mình”, “Cam nhà mình”
góp phần đưa nông sản sạch của Tỉnh đến tay người tiêu dùng trong cả nước.
-
HTX
DVNN Mỹ Đông 2 thực hiện mô hình ứng dụng nhiều
công nghệ cao vào sản xuất lúa với tổng diện tích 90ha. Trong đó có 40ha sử
dụng phân bón thông thường và 50ha sử dụng phân bón thông minh, áp dụng phương
pháp bón phân vùi, sản xuất các loại giống chất lượng cao và áp dụng đồng bộ
các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất. “Mô hình này thực hiện cơ giới hóa đồng bộ
từ khâu gieo cấy và phun xịt thuốc bằng máy bay kết hợp sau thu hoạch làm bằng
máy, giảm lượng giống, giảm lượng sâu rầy, phân bón, năng suất tăng cao để mang
lại lợi nhuận cho bà con nông dân”. Điểm nổi bật của mô hình là thực hiện ứng
dụng nhiều công nghệ cao vào sản xuất lúa như toàn bộ diện tích được thực hiện
bằng phương pháp cấy bằng máy với với lượng giống là 60kg/ha, phun thuốc bằng
máy bay không người lái, tưới ngập khô xen kẻ điều khiển bằng cảm biến. Quản lý
dịch hại tổng hợp IPM. Sử dụng sổ điện tử - truy xuất nguồn gốc nên sẽ giúp
nông dân tiết kiệm được nhiều chi phí đầu tư và giảm nhân công lao động.
-
HTX
DV NN Thuận Tiến năm 2018 thực hiện mô hình canh tác lúa thông minh phối hợp
với Cty Rynan Smart Fertilizers (Trà Vinh) thực hiện thí điểm diện tích 24 ha.
Năm 2019 HTX thực hiện mô hình ruộng nhà mình với công ty lương thực đồng tháp
với diện tích 120 ha. Bên cạnh đó ký kết liên kết tiêu thụ với công ty Hiếu
Nhân diện tích 250 ha.
-
Mô
hình giảm giá thành sản xuất do HTX DVNN An Phong xã Trường Xuân, huyện Tháp
Mười phối hợp với Giáo Sư, Tiến Sĩ Võ Tòng Xuân thực hiện thí điểm diện tích 10
ha/17 hộ. Năng suất qua các vụ đạt mức cao, bình quân khoảng 7,2 tấn/ha. Chi phí sản xuất
luôn thấp hơn sản xuất bình thường, bình quân đạt thấp hơn 4 triệu/ha. Giá
thành sản xuất bình quân giá thành 2.504 đồng/kg lúa, so với sản xuất bình
thường là 3.089 đồng/kg lúa. Lợi nhuận cao hơn so với bình thường, bình quân
lợi nhuận cao hơn là 5,7 triệu đồng/ha. Mô hình đã giúp nâng cao kiến thức, kỹ
năng quản lý đồng ruộng, ứng dụng tốt các kỹ thuật: sạ thưa, bón phân cân đối,
phun thuốc theo 4 đúng, giảm ô nhiễm môi trường và dư lượng thuốc BVTV trong
nông sản, an toàn sức khỏe cho người sản xuất và tiêu dùng.
5. HTX được
thành lập từ mô hình Hội quán
-
Mô
hình “Hội quán” được thành lập cơ sở hoàn toàn tự nguyện, tự chủ, tự quản của
người dân, là một thiết chế đa chức năng mới ở nông thôn với phương châm
"Chăm chỉ - Tự lực - Hợp tác". Với sự quan tâm, tạo điều kiện của cấp
ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, nhất là việc
kết nối với các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp để hỗ trợ, tạo điều kiện trong
quá trình hình thành và hoạt động của Hội quán. Đến nay, toàn tỉnh đã có 96 Hội
quán, thành viên 5.252 thành viên. Hầu hết các Hội quán ra đời đều gắn với ít
nhất một mặt hàng nông sản đặc trưng của địa phương, nên hoạt động của Hội quán
bước đầu hướng các thành viên trở thành những hạt nhân tiêu biểu trong sản xuất
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
-
Từ
đầu năm đến nay thành lập mới 03 HTXNN từ mô hình hội quán (HTX DVNN Phương Trà
từ Phương Tân Hội quán; HTX DVNN An Bình, từ Thuận An Hội quán; HTX DVNN Định
Hòa từ Thanh Tâm Hội quán), Các HTX được thành lập từ mô hình Hội quán hoạt
động tương đối tốt, Hội quán phối hợp với Hội đồng quản trị tổ chức các buổi
sinh hoạt, họp hàng tháng góp phần thay đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang
kinh tế nông nghiệp, thị trường, hàng hóa, lấy chất lượng là tiên phong, qua
đây người dân hiểu được họ đang cần gì và sẽ làm những gì, không còn tư tưởng
trông chờ cấp ủy, chính quyền nghĩ thay và ấn định. Từng thành viên biết tận
dụng, chia sẻ cùng phát triển, tạo ra một thương hiệu, thích ứng với thị
trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao; thông qua sinh hoạt Hội quán giữa các
thành viên đã có niềm tin và tất cả vì lợi ích chung.
-
Qua
đó tạo thuận lợi cho công tác phối hợp để tuyên truyền chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước, rút ngắn khoảng cách người dân và nhà nước. Các
Hội quán, HTX đã phối hợp với các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội tại
địa phương lồng ghép tuyên truyền, thông tin các chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn
với tái cơ cấu nông nghiệp.