Kế hoạch 278/KH-UBND năm 2016 thực hiện Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2016-2020 của tỉnh Hà Giang

Số hiệu 278/KH-UBND
Ngày ban hành 04/11/2016
Ngày có hiệu lực 04/11/2016
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Hà Giang
Người ký Nguyễn Văn Sơn
Lĩnh vực Thể thao - Y tế

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH
HÀ GIANG

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 278/KH-UBND

Hà Giang, ngày 04 tháng 11 năm 2016

 

KẾ HOẠCH

HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020 TỈNH HÀ GIANG

Thực hiện Nghị quyết số 63/NQ-CP, ngày 22/7/2016 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020;

Thực hiện Quyết định số 122/QĐ-TTg, ngày 10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030;

Căn cứ Kế hoạch số 139/KH-BYT, ngày 01/3/2016 của Bộ Y tế về Kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2016 - 2020;

Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh Hà Giang nhiệm kỳ 2016 - 2020;

Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh Hà Giang với nội dung cụ thể sau:

Phần I

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE NHÂN DÂN, GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

Trong giai đoạn từ 2011 - 2015, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ đã có phần cải thiện một cách đáng kể; các bệnh dịch nguy hiểm đã được phát hiện kịp thời, khống chế, đẩy lùi và không để lan rộng; từng bước hạn chế được sự xuống cấp các cơ sở y tế, cải thiện được phần lớn tình trạng thiếu hụt giường bệnh; nhiều kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại đã được ứng dụng thành công; chất lượng cung ứng các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ngày càng được nâng cao; chính sách bảo hiểm y tế đã được thực hiện tốt hơn. Mức độ thụ hưởng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe của nhân dân đã tăng lên rõ rệt.

I. TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Tình hình sức khoẻ

Tuổi thọ trung bình của người dân Hà Giang đã tăng lên đáng kể, đến hết năm 2015 ước đạt là 68,28 tuổi (trong đó: Nữ đạt 69,7 tuổi, nam đạt 67,6 tuổi). Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm xuống còn 7,78‰ (năm 2015); tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi còn 12,8‰ (năm 2015). Về tỷ số chết mẹ giảm xuống còn 11,44/100.000 trẻ đẻ sống (năm 2015). Tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) giảm tương đối bền vững qua các năm, từ 24,2% (năm 2011) xuống còn 22,8% (năm 2015).

Tỷ lệ mắc một số bệnh truyền nhiễm có giảm, nhưng một số bệnh lây nhiễm đang có nguy cơ quay trở lại; tỷ lệ mắc các bệnh không lây xuất hiện và có xu hướng gia tăng; tai nạn, chấn thương, ngộ độc có diễn biến hết sức phức tạp; xuất hiện một số dịch bệnh mới, bệnh lạ có diễn biến khó lường. Những nhóm bệnh có gánh nặng bệnh tật thường gặp hiện nay gồm bệnh tim mạch, chấn thương, thần kinh, tâm thần... Sự gia tăng của những bệnh không lây nhiễm làm gia tăng nhanh chóng các chi phí khám chữa bệnh (KCB). Đây là thách thức lớn đối với hệ thống y tế của tỉnh trong thời gian tới, đòi hỏi phải có những điều chỉnh phù hợp nhằm nỗ lực phòng các bệnh này và tổ chức cung ứng dịch vụ y tế.

2. Đánh giá chung kết quả thực hiện

Được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh, sự phối hợp của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành ph, ngành y tế đã nỗ lực phấn đấu và đã hoàn thành cơ bản các nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế giai đoạn 2011­-2015; đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu y tế cơ bản trong kế hoạch 5 năm và hàng năm. Được lãnh đạo tỉnh biểu dương và đánh giá rất cao kết quả đạt được khá toàn diện trên các lĩnh vực công tác của ngành y tế, đã có những bước tiến quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân và từ đó đóng góp vào thành tựu chung của đt nước trong những năm qua.

Một số kết quả nổi bật là: (1) Giám sát và phát hiện kịp thời, không để dịch xảy ra; (2) Thực hiện có hiệu quả Đán giảm quá tải nhờ nỗ lực tập trung, huy động các nguồn vốn đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất, đẩy mạnh thực hiện đề án bệnh viện vệ tinh, chuyn giao kỹ thuật, tăng cường luân phiên cán bộ tuyến trên xung tuyến dưới để nâng cao chất lượng, trình độ tuyến dưới, giảm tỷ lệ chuyển tuyến trên; (3) Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt cao (96,2%), vượt chỉ tiêu giao; (4) Các cơ sở khám chữa bệnh đã làm tốt việc đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, lấy người bệnh làm trung tâm hướng tới sự hài lòng của người bệnh được toàn ngành hưởng ứng và đồng tâm thực hiện, đã có kết quả bước đầu, được nhân dân ủng hộ; (5) Đẩy mạnh ứng dụng được một số kỹ thuật cao, kỹ thuật mới trong khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ; (6) Từng bước hoàn thiện và đồng bộ hệ thống tổ chức y tế tại tuyến xã, tuyến huyện, tuyến tỉnh để góp phần hội nhập và phát triển; (7) Thực hiện khá tốt các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ trong lĩnh vực y tế.

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều các khó khăn, thách thức trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân như: (1) Nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe ngày càng lớn, trong khi ngân sách và nguồn lực dành cho ngành y tế còn có hạn; (2) Mô hình tổ chức hệ thống y tế còn nhiều đầu mối, thiếu thống nhất; (3) Chất lượng dịch vụ y tế và các chỉ số sức khỏe nhân dân giữa các vùng còn chênh lệch; (4) Quá tải ở một số bệnh viện tuyến tỉnh, huyện vẫn chưa được giải quyết triệt để; (5) Việc kết hợp giữa phòng bệnh với chữa bệnh và phục hồi chức năng, giữa y học cổ truyền với y học hiện đại còn hạn chế; (6) Ngân sách y tế hạn chế nên tỷ lệ chi tiền túi (của người dân) cho y tế còn ở mức cao, khả năng cân đối và chia sẻ rủi ro của quỹ BHYT còn thấp; việc huy động nguồn lực từ khu vực ngoài nhà nước cho y tế còn hạn chế; (7) Phân bổ nhân lực y tế chưa hợp lý, chưa thực hiện chủ trương đãi ngộ hợp lý đối với viên chức ngành y tế; (8) Cơ chế quản lý dược phẩm chưa phát huy một cách mạnh mẽ; nguồn dược liệu phong phú trong tỉnh chưa được đầu tư, khai thác hiệu quả; (9) Hệ thống thông tin y tế chưa đáp ứng yêu cầu công tác quản lý trong tình hình hiện nay.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN

1. Cung ứng dịch vụ y tế

Mạng lưới y tế dự phòng (YTDP) thường xuyên được củng cố và kiện toàn. Các hoạt động được tăng cường, phát hiện và giám sát, xử lý kịp thời, đáp ứng với các vấn đề sức khỏe liên quan đến thiên tai, thảm họa... Các chỉ tiêu về YTDP đều đạt. Cơ sở hạ tầng, nhân lực, phương tiện, ngân sách đã được tăng cường.

Năng lực dự báo, giám sát và phòng chống dịch bệnh được nâng lên; trong 5 năm qua đã ngăn chặn và khống chế được nhiều dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, không có dịch bệnh lớn xảy ra, kiểm soát không đxâm nhập các dịch, bệnh mới nổi (Ebola, MERS-CoV, H7N9,...); duy trì được tỷ lệ TCMR đầy đủ cho trẻ em dưới 1 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt > 90%. Đã thanh toán được bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh và duy trì đến nay, thanh toán bệnh phong ở cấp tỉnh.

Tình hình mắc và tử vong của các bệnh truyền nhiễm gây dịch hầu hết đều giảm qua các năm. Trong 5 năm qua không có trường hợp nào mắc và tử vong do sốt xuất huyết. Đối với bệnh tay chân miệng, tỷ lệ mắc /100.000 dân giảm xuống còn 33,7 và không có trường hợp nào tử vong (năm 2015). Từ năm 2011 đến năm 2015, toàn tỉnh không ghi nhận trường hợp nào mắc cúm A (H5N1).

Công tác dự phòng và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm đã từng bước được triển khai có hiệu quả. Từ năm 2011 - 2015 thông qua các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) đã tchức khám sàng lọc, phát hiện và quản lý điều trị cho khoảng > 2.000 người tăng huyết áp, > 1.500 người tiền đái tháo đường và đái tháo đường; có trên 15% số xã thực hiện việc quản lý tăng huyết áp. Ngành Y tế đã phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tăng cường triển khai thực hiện công tác bảo vệ, giáo dục và chăm sóc sức khỏe trẻ em, học sinh, sinh viên trong các trường học của tỉnh.

Tăng cường quản lý môi trường y tế, việc xử lý chất thải y tế đã có những tiến bộ, có 7/16 các bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, về xử lý chất thải rắn y tế, hiện 100% bệnh viện đã thực hiện phân loại, thu gom chất thải rắn y tế nguy hại hằng ngày, trong đó 10/16 bệnh viện đang sử dụng lò đt hai buồng hoặc công nghệ vi sóng hoặc nhiệt ướt khử khuẩn chất thải rắn y tế nguy hại, còn lại xử lý bằng lò đốt một buồng, thiêu đốt thủ công.

Mạng lưới khám chữa bệnh (KCB) được mở rộng và củng cố, số giường bệnh viện năm 2015 đạt mức 28,0 giường/10.000 dân. Các cơ sở y tế dần được củng cố về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, đào tạo... để cung cấp dịch vụ KCB ngày càng đa dạng và chất lượng. Số lượt người KCB tại các cơ sở y tế đạt >1,2 lần/người/năm. Nhiều kỹ thuật tiên tiến đã được triển khai. Đến hết năm 2015, sau hơn 5 năm thực hiện Đề án 1816, cơ bản giảm tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến tỉnh.

Mạng lưới cơ sở cung ứng dịch vụ Y dược học cổ truyền (YDHCT) đã được củng cố và kiện toàn. Năm 2015, tỷ lệ người bệnh khám chữa bệnh y học cổ truyền (YHCT) ở các tuyến là 13,8%; Tỷ lệ điều trị nội trú bằng YHCT hoặc kết hợp YHCT với y học hiện đại là 26,3%. UBND tỉnh chỉ đạo Ngành Y tế tổ chức mở rộng cung cấp dịch vụ PHCN cho người bệnh.

Nhận thức, thái độ, hành vi về Dân số - KHHGĐ và chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) của nhân dân đã có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,63%; tỷ suất sinh thô giảm còn 21,69‰ (năm 2015); tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm còn 16,0% (năm 2015); tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai 68,01% (năm 2015). Dịch vụ làm mẹ an toàn được thực hiện rộng rãi, số trường hợp phá thai giảm, dịch vụ phá thai an toàn dần mở rộng.

[...]