Kế hoạch 2631/KH-UBND năm 2014 thực hiện Chương trình hành động Quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Số hiệu 2631/KH-UBND
Ngày ban hành 15/09/2014
Ngày có hiệu lực 15/09/2014
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Cao Bằng
Người ký Trần Hùng
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH CAO BẰNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2631/KH-UBND

Cao Bằng, ngày 15 tháng 09 năm 2014

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN “CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐẾN NĂM 2020” TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG

Thực hiện Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 06 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ) đến năm 2020; Hướng dẫn số 2301/HD-BVHTTDL ngày 14 tháng 7 năm 2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về triển khai Chương trình hành động Quốc gia về PCBLGĐ đến năm 2020; Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình hành động Quốc gia về PCBLGĐ đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, như sau:

I. THỰC TRẠNG VỀ PCBLGĐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRONG THỜI GIAN QUA

1. Thực trạng

Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan, ban ngành, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện Luật PCBLGĐ, Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng đã ban hành Chỉ thị số 13/2008/CT-UBND ngày 23 tháng 10 năm 2008 về việc tổ chức triển khai thi hành Luật PCBLGĐ, vì vậy, vấn đề PCBLGĐ đã được các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh triển khai thực hiện. Cùng với công tác PCBLGĐ, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng được chú trọng và phát triển, kết quả cho thấy ngày càng có nhiều gia đình đạt chuẩn danh hiệu gia đình văn hóa, thôn, khu phố văn hóa liên tục tăng, đến nay có 77,9% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa; 47% xóm, tổ dân phố đạt chuẩn xóm, tổ dân phố văn hóa; công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo đạt kết quả đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm.

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (trong đó có Luật PCBLGĐ) được đẩy mạnh: Hội nghị cấp tỉnh với 170 học viên là Lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và 13 huyện thành phố tham gia; hội nghị tổ chức tại các xã với trên 350 học viên là cán bộ cấp xã, xóm tham gia. Năm 2008, đã tập huấn cho 88 cán bộ cấp huyện và 20 cán bộ thuộc các sở, ban, ngành thành viên Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cấp tỉnh và 16 cán bộ các phòng, đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Năm 2009, triển khai tập huấn tại 13 huyện, thành phố cho 1.099 cán bộ 13 huyện, thành phố và 199 xã phường, thị trấn; 134 cán bộ là bí thư chi bộ và trưởng xóm.

Đã có trên 100 tin bài được phát trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình Cao Bằng và đăng trên Báo Cao Bằng, Bản tin Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cao Bằng, Cổng thông tin điện tử Cao Bằng,... mô hình PCBLGĐ được triển khai thực hiện tại 6 xã, phường: Bình Long (huyện Hòa An), Lăng Hiếu (huyện Trùng Khánh), Duyệt Trung và Đề Thám (thành phố Cao Bằng), Quang Hán (Trà Lĩnh), Đào Ngạn (Hà Quảng) đã có 150 cán bộ làm công tác hòa giải được tập huấn, với 30 tổ hòa giải được củng cố năng lực hòa giải bạo lực gia đình (BLGĐ).

Tuy nhiên, đến nay chưa có cuộc điều tra tổng thể trên phạm vi toàn tỉnh, nhưng theo báo cáo kết quả thống kê của các huyện, thành phố đã cho thấy tình hình về BLGĐ trên địa bàn toàn tỉnh là một vấn đề đáng báo động: Số hộ có BLGĐ năm 2009 là 177 hộ, năm 2010 là 315 hộ, năm 2011 là 395 hộ, năm 2012 là 296 hộ; năm 2013 là 193 hộ; trong đó nạn nhân chủ yếu là phụ nữ chiếm 52%, người già chiếm 31% và trẻ em chiếm 17%; hình thức bạo lực chủ yếu là đánh đập thể xác chiếm trên 65%. Đặc biệt, năm 2010 có 01 vụ nạn nhân là người già tại xã Ngọc Côn (Trùng Khánh) bị các con hắt hủi và đuổi ra khỏi nhà, chính quyền xã đã tiến hành hòa giải, xử lý nhiều lần nhưng không thành công, buộc chính quyền huyện phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải vào cuộc mới giải quyết dứt điểm, nạn nhân phải tạm lãnh tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh hơn 01 năm chờ các cấp, các ngành giải quyết.

Công tác hòa giải bước đầu được phát huy, tuy nhiên chỉ những vụ có tính chất tương đối nghiêm trọng mới được đưa ra góp ý phê bình tại cộng đồng dân cư. Các gia đình có bạo lực, các nạn nhân BLGĐ còn tâm lý e ngại, cam chịu, chưa chủ động báo cho chính quyền địa phương để tìm biện pháp xử lý. Việc áp dụng các biện pháp xử lý chủ yếu là tư vấn, hòa giải, góp ý phê bình trong cộng đồng dân cư.

Từ thực trạng nêu trên, có thể xác định tình trạng BLGĐ tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, đối tượng bị bạo lực phần lớn là phụ nữ. Người gây ra bạo lực chủ yếu là nam giới; nguyên nhân gốc rễ của nạn bạo lực là sự bất bình đẳng giới, thiếu hiểu biết về Luật PCBLGĐ; thiếu các kỹ năng ứng xử, cách giải quyết không phù hợp khi trong gia đình có sự mâu thuẫn, xung đột. Ngoài ra là tình trạng cờ bạc, rượu chè, nghèo đói, thiếu việc làm, kết hôn sớm, ép kết hôn, ngoại tình; cộng đồng còn thờ ơ với hành vi BLGĐ; tuyên truyền, giáo dục chưa hiệu quả; chính quyền xử lý BLGĐ chưa triệt để, sự vào cuộc của các cấp ủy, chính quyền còn hạn chế.

2. Nguyên nhân

a) Cán bộ làm công tác PCBLGĐ ở cấp huyện và cấp xã còn thiếu, chủ yếu là kiêm nhiệm nhiều công việc, thường xuyên thay đổi, do đó việc triển khai thi hành Luật PCBLGĐ còn gặp nhiều lúng túng;

b) Công tác tổ chức tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng, gia đình và xã hội đối với việc ngăn chặn giải quyết tình trạng bạo lực chưa được thường xuyên, liên tục. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa được đồng bộ, nhất là trong việc phân rõ chức năng, nhiệm vụ của các ngành liên quan;

c) Nguyên nhân sâu xa dẫn đến BLGĐ là do bất bình đẳng giới, thiếu hiểu biết về Luật PCBLGĐ, trong đó, rượu chè, cờ bạc, tệ nạn xã hội, ngoại tình ... được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến bạo lực. Điều đáng nói là hầu hết khi xảy ra BLGĐ, các nạn nhân không chủ động báo cáo với các cơ quan chức năng... Do đó, gây khó khăn trong việc phát hiện, xử lý, ngăn chặn kịp thời tình trạng BLGĐ;

d) Nguồn kinh phí đầu tư cho công tác gia đình còn ở mức thấp, thậm chí ở cấp huyện, cấp xã chưa được bố trí kinh phí.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội trong công tác PCBLGĐ; từng bước ngăn chặn và giảm dần số vụ BLGĐ trên địa bàn tỉnh.

2. Các mục tiêu cụ thể

a) Đến năm 2015 đạt trên 85% và đến năm 2020 đạt trên 95% số hộ gia đình được tiếp cận thông tin về PCBLGĐ.

b) Đến năm 2015 đạt trên 50% và đến năm 2020 đạt trên 90% số cán bộ tham gia PCBLGĐ các cấp được tập huấn về PCBLGĐ.

c) Đến năm 2015 đạt trên 60% và đến năm 2020 đạt trên 90% số cán bộ lãnh đạo chính quyền, đoàn thể cấp xã được tập huấn nâng cao năng lực PCBLGĐ.

d) Đến năm 2015 đạt trên 30% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan cấp tỉnh có liên quan đến hoạt động PCBLGĐ có báo cáo viên cấp tỉnh về PCBLGĐ.

đ) Đến năm 2015 đạt trên 70% và đến năm 2020 đạt trên 95% số nạn nhân BLGĐ được tiếp cận các hoạt động hỗ trợ về phòng ngừa BLGĐ, tư vấn pháp lý, chăm sóc y tế, bảo vệ sự an toàn cho nạn nhân.

e) Đến năm 2015 đạt trên 90% và đến năm 2020 đạt trên 95% số người có hành vi BLGĐ được tiếp cận các hoạt động hỗ trợ về phòng ngừa, giáo dục chuyển đổi hành vi.

g) Đến năm 2015 đạt trên 40% và đến năm 2020 đạt trên 70% số xã, phường, thị trấn nhân rộng mô hình PCBLGĐ.

3. Đối tượng, phạm vi thực hiện Kế hoạch

[...]