Kế hoạch 205/KH-UBND năm 2020 về thực hiện Chương trình điều chỉnh mức sinh đến năm 2030 thành phố Hải Phòng

Số hiệu 205/KH-UBND
Ngày ban hành 13/08/2020
Ngày có hiệu lực 13/08/2020
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Thành phố Hải Phòng
Người ký Lê Khắc Nam
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 205/KH-UBND

Hải Phòng, ngày 13 tháng 8 năm 2020

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU CHỈNH MỨC SINH ĐẾN NĂM 2030 THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

I. SỰ CẦN THIẾT

Trong những năm qua công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ) luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp thể hiện bằng nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Đã đề ra các mục tiêu và giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách, coi công tác DS - KHHGĐ là một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đi đôi với việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, việc đầu tư kinh phí cho công tác DS - KHHGĐ cũng được các cấp lãnh đạo, địa phương đơn vị tiếp tục quan tâm, do đó công tác DS - KHHGĐ đã đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu mà Trung ương và thành phố giao; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên trong những năm qua đều đạt dưới 1 %. Nhận thức và hành động - của đại bộ phận người dân về chính sách DS - KHHGĐ đã có những chuyển biến tích cực; mức sinh thay thế được tiếp tục duy trì hơn một thập kỷ qua; quy mô gia đình có 2 con được chấp nhận ngày càng rộng rãi, lan toả, thấm sâu trong toàn xã hội; tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh trên địa bàn thành phố từng bước được khống chế; chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt; dịch vụ dân số được mở rộng, chất lượng ngày càng cao, các hoạt động mô hình, đề án, dự án nâng cao chất lượng dân số đã được triển khai sâu rộng trên toàn thành phố.

Mặc dù thành phố Hải Phòng là một trong 9 tỉnh, thành phố trên cả nước đạt mức sinh thay thế (Tổng tỷ suất sinh TFR đạt 2,1 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) từ năm 2009 đến nay (năm 2009: 2,16 con/phụ nữ); nhưng hiện nay mức sinh của thành phố chưa ổn định, không đồng đều giữa các địa phương và tiềm ẩn nguy cơ tăng sinh trở lại. Mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức cao so với mức bình quân của cả nước (năm 2019 Hải Phòng là 117,3 bé trai/100 bé gái, cả nước là 111,5 bé trai/100 bé gái)(1). Tình trạng tăng sinh và tăng sinh con thứ 3 trở lên diễn ra tại hầu hết các địa phương, quan niệm phải có con trai vẫn còn khá nặng nề ở nhiều gia đình, trong đó có cả cán bộ, đảng viên công chức, viên chức cũng nhận thức chưa đúng về chính sách DS - KHHGĐ.

Duy trì mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các địa phương, đơn vị, giữa thành thị và nông thôn sẽ góp phần ổn định quy mô dân số, có tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực; giảm khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các địa phương, đơn vị, giữa thành thị và nông thôn.

Việc điều chỉnh mức sinh phù hợp đối với từng địa phương, đơn vị là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trên địa bàn thành phố, là nhân tố nền tảng góp phần phát triển nhanh và bền vững của thành phố.

II. CĂN CỨ PHÁP LÝ

Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về công tác dân số trong tình hình mới; Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW;

Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030;

Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030;

Chương trình hành động số 51-CTr/TU ngày 10/01/2018 của Ban Thường, vụ Thành ủy về thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017;

Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ và Chương trình hành động số 51-CTr/TU ngày 10/01/2018 thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017;

Kế hoạch số 173/KH-UBND ngày 01/7/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố về thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030 thành phố Hải Phòng.

III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI

1. Đối tượng

- Nam, nữ trong độ tuổi sinh đẻ.

- Cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị, doanh nghiệp, tổ chức; người có uy tín, người đứng đầu tổ chức tại cộng đồng, tôn giáo, dòng họ, cá nhân liên quan.

2. Phạm vi và thời gian thực hiện

- Phạm vi: Thực hiện trong phạm vi toàn thành phố.

- Thời gian thực hiện: Từ năm 2020 đến năm 2030.

+ Giai đoạn 2020-2025: Triển khai các hoạt động của chương trình nhằm duy trì mức sinh thay thế.

+ Giai đoạn: 2026-2030: Đánh giá điều chỉnh, mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động, hoàn thiện chính sách duy trì mức sinh thay thế.

IV. THỰC TRẠNG MỨC SINH

1. Kết quả đạt được

Quy mô dân số của thành phố trong những năm qua giữ được mức tương đối ổn định, dân số trung bình Hải Phòng năm 2009 là 1.840.445 người, năm 2019 là 2.033.248 người (bình quân 1 năm tăng 19.280 người); tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm ở mức 1,00% (bình quân giai đoạn 2009-2019 là 1,00%). Tỷ suất sinh thô giảm từ 18,1 ‰ năm 2009 xuống còn 15,9‰ năm 2019. Tổng tỷ suất sinh năm 2009 là 2,16 con/phụ nữ, năm 2015 là 2,02 con/phụ nữ và năm 2019 là 2,20 con/phụ nữ, trung bình 5 năm giai đoạn (2015-2019) là 2,05 con/phụ nữ(2).

Chất lượng dân số của Hải Phòng đã được nâng lên rõ rệt. Tỷ suất chết thô giảm từ 8,4‰ năm 2014 xuống 7,3‰ năm 2019; tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 19,1‰ năm 2012 xuống còn 17,0‰ năm 2019 (Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi của toàn quốc năm 2019 là 21,0‰). Tuổi thọ trung bình của người dân thành phố ngày càng tăng, năm 2012 là 74,1 tuổi; năm 2019 là 74,7 tuổi, cao hơn tuổi thọ trung bình của cả nước (cả nước là 73,6 tuổi)(3). Số lượng và tỷ trọng dân số phụ thuộc giảm, dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh; tỷ lệ người trong độ tuổi lao động từ (15 - 64 tuổi) năm 2019 chiếm 66,7% dân số; tỷ lệ dân số (0-14 tuổi) là 24%; tỷ lệ người cao tuổi (65 tuổi trở lên) là 9,3%(4).

Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình: Với cơ cấu dân số nữ 1.020.747 người (năm 2019), trong đó phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) là 486.337 người(5). Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại hàng năm đạt ở mức từ 65-70% (năm 2019: 70,2%). Các chỉ tiêu về số người mới sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch do Trung ương, thành phố giao.

[...]