Kế hoạch 108/KH-UBND năm 2020 về thực hiện Chương trình điều chỉnh mức sinh đến năm 2030 tỉnh Ninh Bình

Số hiệu 108/KH-UBND
Ngày ban hành 31/10/2020
Ngày có hiệu lực 31/10/2020
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Ninh Bình
Người ký Tống Quang Thìn
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 108/KH-UBND

Ninh Bình, ngày 31 tháng 10 năm 2020

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU CHỈNH MỨC SINH ĐẾN NĂM 2030 CỦA TỈNH NINH BÌNH

Thực hiện Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030”, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng Kế hoạch thực hiện Chương trình điều chỉnh mức sinh đến năm 2030 của tỉnh Ninh Bình, như sau:

I. CĂN CỨ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

- Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về công tác dân số trong tình hình mới;

- Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới;

- Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030;

- Quyết định số 588/QĐ-TTg, ngày 28/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định phê duyệt “Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030”;

- Quyết định số 2324/QĐ-BYT ngày 05/6/2020 của Bộ Y tế về việc Ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030;

- Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 26/02/2018 của Tỉnh uỷ Ninh Bình thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về công tác dân số trong tình hình mới;

- Kế hoạch số 37/KH-UBND ngày 09/4/2018 của UBND tỉnh về thực hiện Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 26/02/2018 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới.

II. THỰC TRẠNG MỨC SINH TẠI TỈNH NINH BÌNH

1. Thực trạng mức sinh

Mức sinh thay thế có vai trò quan trọng trong việc ổn định quy mô dân số, cơ cấu dân số, nâng cao chất lượng số và nguồn nhân lực cho phát triển đất nước. Nếu mức sinh giảm xuống thấp đến dưới mức 1,35 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, điều này sẽ dẫn đến dân số suy giảm, thiếu nguồn lao động, giai đoạn cơ cấu dân số "vàng" ngắn lại và già hóa dân số diễn ra nhanh. Nếu mức sinh tăng lên tới mức từ 2,3 con trở lên/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, quy mô dân số sẽ ở mức cao, điều này sẽ gây áp lực lớn đối với các lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, việc làm... rất bất lợi đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu nhân khẩu học của đất nước nói chung cũng như của tỉnh nói riêng trong tương lai.

Duy trì mức sinh thay thế và giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, địa phương sẽ góp phần ổn định quy mô dân số, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng dân số và nguồn lực cho phát triển ở mỗi địa phương và trong toàn tỉnh.

Trong những năm qua, được sự quan tâm, lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, sự ủng hộ của mọi tầng lớp Nhân dân, công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) của tỉnh đã được triển khai đồng bộ và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân trong tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện nay công tác dân số của tỉnh còn nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là mục tiêu giảm sinh trên địa bàn tỉnh trong những năm qua. Từ năm 2010 đến năm 2011: số con trung bình của một người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ của tỉnh Ninh Bình thấp hơn so với mức sinh thay thế: năm 2010: 1,88 con; năm 2011: 1,86 con. Tuy nhiên từ năm 2012 đến nay mức sinh tăng trở lại, cao hơn so với mức sinh thay thế: năm 2012: 2,66 con và đến năm 2019 giảm xuống còn 2,46 con1. Theo Điều tra biến động dân số vào thời điểm 1/4 hằng năm, Ninh Bình là một trong 33 tỉnh có mức sinh cao trong toàn quốc và tổng tỷ suất sinh (TFR) trung bình trong 5 năm (2015-2019) là 2,62 con2.

Giữa khu vực thành thị và nông thôn có sự khác biệt về mức sinh. Ở khu vực thành thị mức sinh luôn ở thấp hơn so với khu vực nông thôn: Năm 2011, số con trung bình của một người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở khu vực thành thị là 1,69 con, khu vực nông thôn: 1,9 con; năm 2019: số con trung bình của một người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở khu vực thành thị: 2,26 con và khu vực nông thôn là 2,51 con. Tỷ lệ tăng dân số bình quân từ năm 2011 đến năm 2019 là 1,13%. Tỷ suất sinh thô có xu hướng tăng, năm 2011: 13,10‰, năm 2019: 16,90‰;3

Tỷ lệ áp dụng các biện pháp tránh thai (BPTT) trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm nhẹ: năm 2016: 68,09%, năm 2017: 67,11%, năm 2018: 65,8% và năm 2019: 66,25%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 hằng năm tăng: năm 2016: 18,35%, năm 2019: 29,25%4.

2. Nguyên nhân mức sinh tăng

Tại một số địa phương, đơn vị, cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa thấy hết vai trò, tầm quan trọng và tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của công tác dân số nhất là trong giai đoạn hiện nay nên chưa thực sự quan tâm, chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác phối kết hợp của một số cơ quan, ban ngành trong việc tổ chức thực hiện công tác dân số chưa được thường xuyên, hiệu quả chưa cao;

Chế tài xử lý vi phạm chính sách dân số chưa đủ mạnh, vì vậy một số cán bộ, đảng viên còn vi phạm (sinh con thứ 3 trở lên) làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác vận động quần chúng nhân dân thực hiện chính sách dân số. Một số vấn đề mới nảy sinh chưa có quy phạm pháp luật để điều chỉnh, gây khó khăn trong công tác quản lý và thực thi pháp luật (xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức không phải là đảng viên vi phạm chính sách dân số). Bên cạnh đó, một số cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần gương mẫu trong thực hiện chính sách dân số đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân thực hiện chính sách về dân số.

Tâm lý, tập quán trọng nam hơn nữ, muốn có đông con, phải có con trai để nối dõi, phát triển dòng tộc, phụng dưỡng tuổi già tồn tại trong ý thức hệ của một bộ phận không nhỏ nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên. Đây là những khó khăn thách thức lớn ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác dân số.

Công tác truyền thông, vận động về dân số mặc dù đã có sự đổi mới về nội dung, hình thức, nhưng cơ bản vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhất là ở vùng sâu, vùng xa, các xã khó khăn, đặc thù; Các thông điệp truyền thông chưa kịp chuyển đổi phù hợp với biến động mức sinh của từng vùng, từng nhóm đối tượng. Chính sách và nguồn lực đầu tư chưa tính đến đặc thù mức sinh của từng địa phương, chưa tạo được sự chủ động, quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách sinh đủ hai con. Đội ngũ cán bộ dân số xã và cộng tác viên thường xuyên biến động, trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác còn hạn chế.

Đối tượng được hưởng chính sách miễn phí phương tiện tránh thai bị thu hẹp. Bên cạnh đó nguồn tiếp thị xã hội chưa đáp ứng nhu cầu của đối tượng về chủng loại, sản phẩm. Nhất là dịch vụ cung cấp các biện pháp tránh thai lâm sàng chưa được triển khai rộng rãi nên ảnh hưởng đến nhu cầu tiếp cận và sử dụng các biện pháp tránh thai của các đối tượng.

Ngân sách của Nhà nước đầu tư cho công tác dân số, nhất là ở tuyến huyện và tuyến xã còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là kinh phí cho hoạt động truyền thông.

III. MỤC TIÊU

- Đến năm 2025 đạt mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con) trên địa bàn toàn tỉnh.

[...]