Thứ 7, Ngày 26/10/2024

Kế hoạch 202/KH-UBND năm 2023 về phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn giai đoạn 2023-2025, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Số hiệu 202/KH-UBND
Ngày ban hành 11/08/2023
Ngày có hiệu lực 11/08/2023
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Thanh Hóa
Người ký Lê Đức Giang
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 202/KH-UBND

Thanh Hóa, ngày 11 tháng 8 năm 2023

 

KẾ HOẠCH

PHÒNG, CHỐNG HẠN HÁN, THIẾU NƯỚC, XÂM NHẬP MẶN GIAI ĐOẠN 2023-2025, TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA

Thực hiện Công điện số 397/CĐ-TTg ngày 13/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ, Công văn số 3222/BNN-TL ngày 19/5/2023 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc chủ động triển khai các biện pháp cấp bách ứng phó với nguy cơ nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn và để chủ động trong công tác phòng, chống, đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt trên địa bàn tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Kế hoạch phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn giai đoạn 2023-2025, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa với các nội dung như sau:

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

- Chủ động ứng phó với hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trong tình hình biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng khắc nghiệt, đảm bảo đủ nước ngọt phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, cũng như tiếp tục phát huy tính chủ động, tích cực của các ngành, các cấp và người dân trong việc sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và công tác phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao ý thức sử dụng nước, tính chủ động, tích cực của người dân trong việc phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.

- Tập trung huy động các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; đảm bảo thực hiện tốt việc ngăn mặn, trữ ngọt phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của người dân, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn gây ra.

II. TÌNH HÌNH KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN, NGUỒN NƯỚC VÀ DỰ BÁO GIAI ĐOẠN 2023-2025

1. Tình hình khí tượng thủy văn, nguồn nước trong thời gian vừa qua

Trong giai đoạn từ năm 2014-2016, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, hiện tượng El Nino đã làm nhiệt độ cao hơn cùng kỳ các năm từ 1-1,5°C, nắng nóng xảy ra trên diện rộng, liên tục và kéo dài trong vụ Chiêm Xuân và đầu vụ Mùa; mặn xâm nhập sớm và sâu vào nội địa; mực nước trên các triền sông liên tục ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm (TBNN) ảnh hưởng rất lớn đến công tác tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh trên địa bàn tỉnh đã làm khoảng 43.483 ha lúa và 7.698 ha cây trồng khác bị thiếu nước, trong đó có 1.144 ha lúa bị mất trắng, 2.083 ha lúa bị giảm năng suất.

Theo nhận định của các mô hình tính toán, hiện tượng El Nino trong giai đoạn 2023-2025 sẽ không khốc liệt bằng giai đoạn 2014-2016. Tuy nhiên, do nhu cầu sử dụng nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, cùng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng khắc nghiệt, hiện tượng El Nino đã và đang tiềm ẩn nhiều diễn biến bất thường, khó lường gây nguy cơ hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn xảy ra trong thời gian tới, cụ thể:

- Nắng nóng xuất hiện sớm, gay gắt và kéo dài: Trong năm 2023, tại Việt Nam, nắng nóng đã xuất hiện sớm từ giữa tháng 3 đến tháng 4, hàng loạt kỷ lục nhiệt độ được thiết lập ở nhiều điểm đo trên cả nước; đặc biệt, đầu tháng 5 đã ghi nhận kỷ lục nắng nóng nhất trong lịch sử Việt Nam: ngày 06/5/2023, nhiệt độ cao nhất tại Hồi Xuân (Thanh Hóa) là 44,1°C, vượt kỷ lục 43,4°C ngày 20/4/2019 tại Hương Khê (Hà Tĩnh); ngay sau đó, ngày 07/5/2023, nhiệt độ ghi nhận tại Tương Dương (Nghệ An) là 44,2°C, trở thành mức nhiệt cao nhất từng ghi nhận trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

- Thiếu hụt lượng mưa, mực nước các sông, suối xuống thấp và thiếu hụt dòng chảy năm: Qua theo dõi đến hết tháng 5/2023, lượng mưa trên địa bàn tỉnh thiếu hụt so với TBNN cùng kỳ khoảng 5,3%, thiếu hụt so với cùng kỳ năm 2022 là 29%; mực nước sông các tháng 3, 4/2023 xuống thấp hơn so với TBNN cùng kỳ từ 0,95-2,5 m (trên sông Mã tại trạm thủy văn Lý Nhân thấp hơn TBNN cùng kỳ từ 2,4-2,5 m; trên sông Chu tại trạm thủy văn Xuân Khánh thấp hơn TBNN cùng kỳ từ 0,95-1,2 m); dòng chảy năm các tháng 3, 4/2023 thấp hơn so với TBNN cùng kỳ từ 5-12%, riêng trên sông Mã tại trạm thủy văn Mường Lát thấp hơn so với TBNN cùng kỳ từ 40-55%.

- Nguồn nước của các hồ chứa thủy điện, thủy lợi xuống thấp: Tại thời điểm cuối tháng 5/2023, nguồn nước trữ tại các hồ chứa ở Bắc Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ chỉ đạt khoảng 40-50% dung tích thiết kế, mực nước tại các hồ chứa ở Trung Bộ chỉ đạt khoảng 50-70% so với dung tích thiết kế; một số hồ chứa thủy điện thường xuyên tham gia bổ sung nguồn nước cho hạ du có dung tích trữ thấp hơn 10-15% so với các các năm bị hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng 2015, 2016. Riêng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đến ngày 30/6/2023, có 532/610 hồ chứa có mực nước thấp hơn mực nước dâng bình thường (trong đó, có 63 hồ dưới mực nước chết); mực nước hồ Yên Mỹ thấp hơn so với cùng kỳ năm 2022 là 0,67 m, hồ Cửa Đạt thấp hơn so với cùng kỳ năm 2022 là 12,48 m, hồ thủy điện Hủa Na trên sông Chu thấp hơn cùng kỳ năm 2022 là 4,94 m, hồ thủy điện Trung Sơn trên sông Mã cao hơn so với mực nước chết 7,02 m, cao hơn so với cùng kỳ năm 2022 là 2,37 m.

- Tình hình xâm nhập mặn: Qua theo dõi, độ mặn 1‰ vùng cửa sông, ven biển tiếp tục duy trì ở mức cao và lấn sâu vào nội địa từ 18,5-23,8 km, cụ thể: trên sông Mã từ 22,5-23,8 km; sông Lèn từ 17,9-18,5 km; sông Hoàng và sông Yên từ 16,5-23,2 km; sông Nhơm từ 21,8-22,5 km.

2. Dự báo tình hình khí tượng thủy văn, nguồn nước giai đoạn 2023-2025

Từ tháng 6/2023, hiện tượng El Nino đã xuất hiện và có thể kéo dài, dự báo sẽ tác động lớn nhất trong năm 2024; hiện tượng El Nino sẽ tạo ra tình trạng khô hạn trên diện rộng, rất rộng; theo đánh giá qua các mô hình dự báo cho thấy mức chênh lệch nhiệt độ trong giai đoạn này có thể vào khoảng từ 1,8-2°C, thấp hơn năm 2016 nhưng lại cao hơn mức 1,2°C của đợt El Nino năm 2019-2020. Vì vậy, có thể dự đoán mức độ của El Nino kết hợp với biến đổi khí hậu đến nhanh trong giai đoạn này sẽ gây tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trên diện rộng, trong đó có địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

III. NHẬN ĐỊNH KHẢ NĂNG XẢY RA THIẾU NƯỚC, HẠN HÁN, XÂM NHẬP MẶN

Tổng lượng nước mặt đến tỉnh Thanh Hóa trung bình hàng năm là 21,05 tỷ m3 (trong đó: nguồn nước ngoại sinh từ lưu vực sông Mã là 11,56 tỷ m3; nguồn nước nội sinh phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm là 9,49 tỷ m3), đối với các năm hạn hán, thiếu nước, tổng lượng nước ứng với tần suất 85% là 14,84 tỷ m3 (giảm khoảng 30%); đến nay, tổng dung tích trữ được từ các công trình hồ chứa thủy lợi, thủy điện là 2,15 tỷ m3 (trong đó: dung tích hữu ích để sử dụng hàng năm là 1,41 tỷ m3), trong khi, nhu cầu sử dụng nước ngọt hàng năm cho nông nghiệp, sinh hoạt, công nghiệp khoảng 3,547 tỷ m3 (trong đó: nông nghiệp là 3,25 tỷ m3; phục vụ sinh hoạt là 254 triệu m3; công nghiệp là 43 triệu m3).

Dự báo nhu cầu sử dụng nguồn nước ngọt đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh khoảng 3,662 tỷ m3 (trong đó: nông nghiệp là 3,179 tỷ m3; phục vụ sinh hoạt là 315 triệu m3; công nghiệp là 168 triệu m3); do phân bố nguồn nước trên địa bàn tỉnh không đều nên kết quả tính toán cân bằng nước và đánh giá khả năng đáp ứng nguồn nước cho thấy đến năm 2025, so với nhu cầu dùng nước, tổng lượng nước thừa là 10,1 tỷ m3 (tập trung ở 4 vùng: thượng nguồn sông Mã, thượng nguồn sông Chu, vùng sông Âm và vùng Nam sông Mã-Bắc sông Chu), tổng lượng nước thiếu là 0,507 tỷ m3 (tập trung ở 3 vùng: Nam sông Chu, Bắc sông Mã, hạ du sông Bưởi và cục bộ tại các vùng: hồ đập nhỏ, vùng chân ruộng cao khó tưới, vùng đuôi kênh,…).

Với nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao, lượng nước trữ được từ các công trình thủy lợi, thủy điện chưa đáp ứng so với nhu cầu và tiềm năng, đồng thời trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng khắc nghiệt, hiện tượng El Nino tiềm ẩn nhiều diễn biến bất thường, khó lường sẽ tác động lớn đến việc cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là khu vực vùng Nam sông Chu (Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa, Sầm Sơn, Quảng Xương, Nghi Sơn,…), vùng Bắc sông Mã (Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Bỉm Sơn và một số xã thuộc huyện Vĩnh Lộc, thành phố Thanh Hóa), vùng hạ du sông Bưởi (một số xã thuộc các huyện: Vĩnh Lộc, Thạch Thành) và cục bộ một số vùng thừa nước nhưng chưa chủ động được nguồn nước (thiếu công trình chuyển nước và công trình khai thác nước tại chỗ).

1. Đối với cấp nước cho sinh hoạt

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 54 công trình cấp nước sạch tập trung với công suất khoảng 419.810 m3/ngày đêm và 506 công trình cấp nước tập trung (tự chảy) với công suất khoảng 34.040 m3/ngày.đêm (trong đó, có 325 công trình kém bền vững và 181 công trình không hoạt động). Qua theo dõi hàng năm, trong trường hợp nắng nóng kéo dài, mực nước các sông xuống thấp, dòng chảy thiếu hụt trên địa bàn tỉnh, có thể chịu ảnh hưởng của thiếu nước, hạn hán, xâm nhập mặn đến việc cấp nước sinh hoạt như sau:

- Về ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn: Chủ yếu là thuộc vùng Nam sông Chu, Bắc sông Mã tập trung ở khu vực ven biển và thành phố Thanh Hóa, có các công trình cấp nước bị ảnh hưởng chủ yếu là các công trình cấp nước sạch lấy nguồn nước thô từ hạ lưu sông Mã, sông Lèn, sông Hoạt, kênh De,…, như: nhà máy nước Hàm Rồng; hệ thống cấp nước sinh hoạt cho thị trấn Hậu Lộc và một số xã lân cận; nhà máy nước sinh hoạt xã Ngư Lộc; công trình cấp nước sạch 7 xã, huyện Hậu Lộc; nhà máy nước sạch Bắc Nga Sơn; nhà máy nước sạch sinh hoạt huyện Hà Trung;…. Đây là khu vực có nhu cầu sử dụng nước sạch cao do dân cư đông đúc và tập trung nhiều hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

- Về ảnh hưởng của thiếu nước, hạn hán: Tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, chưa thu hút được đầu tư các công trình cấp nước sạch tập trung, chưa chủ động về nguồn nước (thiếu công trình chuyển nước và công trình khai thác nước tại chỗ), cụ thể:

+ Đối với khu vực miền núi thấp, gồm 4 huyện (Như Thanh, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc), là khu vực giao giữa vùng miền núi cao và vùng đồng bằng, địa hình có nhiều đồi, núi thấp, độ dốc nhỏ và xen lẫn đồng bằng, trung du. Hàng năm, vào các tháng mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 của năm sau) thường xuyên xảy ra thiếu nước sinh hoạt do mực nước sông hạ thấp, nguồn nước ngầm bị ô nhiễm (huyện Ngọc Lặc và Cẩm Thủy) hoặc thường bị ngập lụt dẫn đến ô nhiễm nguồn nước (một số xã thuộc huyện Cẩm Thủy và Thạch Thành).

+ Đối với vùng núi cao, đặc biệt khó khăn, gồm 6 huyện (Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát), đây là vùng đặc thù có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, dân cư sống rải rác, các công trình cấp nước tự chảy được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ có quy mô thôn/bản, các công trình này sau một thời gian hoạt động, phần lớn bị hư hỏng, xuống cấp, ngừng hoạt động hoặc chưa có công trình cấp nước, phụ thuộc lớn vào nguồn nước sông, suối, các mó nước phía thượng nguồn,….

2. Đối với cấp nước cho sản xuất nông nghiệp

[...]