Kế hoạch 147/KH-UBND năm 2016 thực hiện Nghị quyết 19-2016/NQ-CP và 35/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 do thành phố Hà Nội ban hành

Số hiệu 147/KH-UBND
Ngày ban hành 30/07/2016
Ngày có hiệu lực 30/07/2016
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Thành phố Hà Nội
Người ký Nguyễn Đức Chung
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ
HÀ NỘI

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 147/KH-UBND

Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016

 

KẾ HOẠCH

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 19-2016/NQ-CP NGÀY 28/4/2016, NGHỊ QUYẾT SỐ 35/NQ-CP NGÀY 16/5/2016 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH, HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH HAI NĂM 2016-2017, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020

Đcải thiện môi trường sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh theo chỉ đạo của Chính phủ tại: Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 và Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành và triển khai thực hiện Kế hoạch hành động số 87/KH-UBND ngày 29/4/2014 và Kế hoạch số 117/KH-UBND ngày 28/4/2015 với mục tiêu, chỉ tiêu và các giải pháp cụ th. Các cấp, các ngành đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Kế hoạch của Thành phố, cụ thể hóa mục tiêu theo lộ trình cải cách các quy định về thủ tục hành chính và trách nhiệm của cơ quan thực thi các nhiệm vụ, giải pháp đra. Nội dung này đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, cấp thiết trong công tác chỉ đạo của các cấp, các ngành từ Thành phố đến cơ sở và đã được doanh nghiệp và nhân dân đánh giá tích cực. Môi trường sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh từng bước được cải thiện. Chỉ snăng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) liên tục tăng hạng trong ba năm gần đây, năm 2013 xếp thứ 33, năm 2014 xếp thứ 26, năm 2015 xếp thứ 24, xếp hạng cao nhất kể từ ngày công bố Chỉ số PCI.

Hà Nội đã có chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực: thuế, hải quan, đăng ký thành lập doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất, xúc tiến thương mại, tháo gỡ khó khăn ngắn hạn cho doanh nghiệp. Thực hiện giảm thời gian giải quyết thủ tục thành lập doanh nghiệp từ 05 ngày xuống còn 03 ngày làm việc từ ngày 01/01/2015 (sớm 6 tháng theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014). Đã thực hiện vượt chỉ tiêu và thời gian theo Nghị quyết 19/NQ-CP về kê khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử, rút ngắn thời gian nộp thuế. Tỷ lệ doanh nghiệp kê khai thuế điện tử đạt 98,56%, chiếm gần 20% của cả nước; tỷ lệ doanh nghiệp nộp thuế điện tử đạt 96,7 %, chiếm trên 20% của cả nước; rút ngắn thời gian nộp thuế của doanh nghiệp còn 117 giờ/năm, vượt chỉ tiêu 121,5 giờ/năm. Thủ tục hải quan trên địa bàn đã tiếp cận chuẩn mực của các nước tiên tiến, phù hợp với cam kết quốc tế. Đảm bảo quản lý hải quan hiện đại tại các đơn vị, khu vực, đặc biệt là tại Nhà ga Quốc tế Nội Bài. Tích cực triển khai thực hiện giao dịch điện tử về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Tiếp tục duy trì tốt hoạt động của phần mềm dịch vụ công mức độ 3 đối với công tác cấp GCN quyền sử dụng đất, cung cấp thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Giải quyết cp điện qua trạm biến áp chuyên dùng thuộc trách nhiệm của ngành điện tối đa là 10 ngày...

Môi trường kinh doanh đã được cải thiện đáng ghi nhận nhưng chưa đạt được kết quả so với yêu cầu và chưa có sự đột phá. Nhiều Chỉ số thành phần trong bộ Chỉ số PCI vẫn xếp hạng thấp (“Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất”, “Chi phí gia nhập thị trường”, “Môi trường cạnh tranh bình đẳng”, “Thiết chế pháp lý”, “Chi phí không chính thức”, “Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước”, “Tính năng động và tiên phong của chính quyền”), trong đó, một số Chỉ số xếp hạng thấp liên tục trong nhiều năm, chưa có sự cải thiện.

Từ nay đến năm 2020, Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu, rộng sau khi Việt Nam hoàn tất đàm phán và bắt đu triển khai thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đối với các đi tác lớn hàng đầu thế giới, hoàn tất việc triển khai các cam kết kinh tế trong khuôn khổ WTO và tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN. Việc cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh là yêu cầu cấp thiết nhằm tranh thủ hiệu quả các cơ hội và lợi ích của các cam kết hội nhập.

Căn cứ Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị “Doanh nghiệp Việt Nam - Động lực phát triển của đất nước” ngày 29/4/2016; Cam kết của Hà Nội tại Hội nghị “Hà Nội 2016 - Hợp tác đầu tư và phát triển” ngày 04/6/2016; UBND Thành phố ban hành Kế hoạch cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020, tập trung vào các nội dung sau:

I. Mục đích, yêu cầu và các chỉ tiêu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của Thành phố

1. Mc đích

- Tiên phong trong cả nước về cải thiện môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh theo tinh thần Nghị quyết 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ và Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị “Doanh nghiệp - Động lực phát triển của đất nước” ngày 29/4/2016, Cam kết của Hà Nội tại Hội nghị “Hà Nội 2016 - Hợp tác đầu tư và phát triển” ngày 4/6/2016. Năm 2016, phấn đấu góp phần cùng cả nước đạt chỉ số môi trường kinh doanh tối thiểu mức trung bình của nhóm nước ASEAN 4; đến năm 2020 đạt mức trung bình của ASEAN 3 trên một số chỉ tiêu chủ yếu theo thông lệ quốc tế.

- Xây dựng môi trường kinh doanh công bằng, thân thiện, thông thoáng; tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Khuyến khích các sáng kiến cải cách nhm rút ngắn quy trình, giảm số lượng và đơn giản hóa nội dung thủ tục hành chính. Tạo sự đột phá về thu hút đầu tư, cả trong nước và đầu tư nước ngoài.

2. Yêu cầu

Các đơn vị quán triệt tư tưởng, nhận thức để tạo sự chuyển biến mạnh trong đội ngũ cán bộ công chức vthái độ, trách nhiệm, tác phong thực hiện công vụ. Xây dựng phong cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp đối với doanh nghiệp và công dân theo hướng thân thiện, chuyên nghiệp và tạo điều kiện tối đa. Tạo lập lòng tin và tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước. Xây dựng quy chế, quy trình làm việc của đơn vị mình trên tinh thần 5 rõ: “rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ trách nhiệm và rõ hiệu quả”, “một việc - một đầu mối xuyên suốt”.

Công khai minh bạch, cập nhật và hướng dẫn rõ ràng 100% các quyết định, chính sách, thủ tục hành chính cho công dân, doanh nghiệp trên website, trang thông tin điện tử của đơn vị... Các biểu mẫu hướng dẫn phải đúng quy định, đầy đủ, dễ thực hiện và thường xuyên được cập nhật. Doanh nghiệp chỉ phải thực hiện đúng những quy định đã được công bố công khai.

Các Sở, ban ngành và Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã rà soát, xây dựng, sửa đi quy trình để có bước đột phá theo hướng tăng cường liên thông, giảm thời gian, thủ tục so với yêu cầu của Trung ương. Thực hiện nghiêm túc Quyết định số 07/2016/QĐ-UBND ngày 08/3/2016 của UBND Thành phố về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức tại các cơ quan hành chính nhà nước. Đối với hồ sơ quá hạn giải quyết, Lãnh đạo cơ quan có văn bản xin lỗi cá nhân, tổ chức trong đó nêu rõ lý do quá hạn và thời gian trả kết quả lần sau.

Đy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin gắn với việc đổi mới phương thức điều hành. Phát triển dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; trước mắt tăng tỷ lệ giải quyết thủ tục hồ sơ hành chính qua mạng.

3. Các chỉ tiêu chủ yếu

- Cải thiện điểm số và xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Thành phố. Phấn đấu năm 2020, nằm trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước về chỉ số PCI. Trong đó, giai đoạn 2016-2017, phấn đấu trong nhóm đầu các địa phương có chất lượng điều hành khá (từ vị trí thứ 12 đến 20), năm sau cải thiện hơn năm trước.

- Phấn đấu có thêm 200.000 doanh nghiệp thành lập mới trong giai đoạn 2016-2020.

- Các Sở, ngành, quận, huyện, thị xã công khai minh bạch, cập nhật và hướng dn rõ ràng 100% các quyết định, chính sách, thủ tục hành chính trên website/trang thông tin điện tử của đơn vị...

- Giải quyết đăng ký thành lập mới doanh nghiệp qua mạng trong 02 ngày làm việc đối với quá trình giao dịch trên mạng và trả kết quả ngay trong ngày kể từ khi tiếp nhận hồ sơ bằng bản giấy tại cơ quan đăng ký kinh doanh.

- Duy trì tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử đạt trên 95%. Thời gian nộp thuế và bảo hiểm bắt buộc không quá 168 giờ/năm vào năm 2016; 155 giờ/năm vào năm 2020 (trong đó, thời gian nộp thuế là 110 giờ/năm và bảo hiểm xã hội là 45 giờ/năm).

- Thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa Hải quan và cơ quan quản lý nhà nước liên quan. Năm 2016, giảm thời gian hoàn thành thủ tục xuất khẩu xuống còn dưới 10 ngày và thời gian nhập khẩu xuống còn dưới 12 ngày. Đến năm 2020, giảm chỉ còn dưới 36 giờ đối với hàng hóa xuất khẩu, 41 giờ đối với hàng hóa nhập khẩu.

- Giảm thời gian thực hiện thủ tục tiếp cận điện năng xuống còn 21 ngày đối với đường điện trên không và 26 ngày đối với đường điện trung áp cáp ngầm trong năm 2016.

- Rút ngắn thời gian xin cấp phép xây dựng theo phương pháp xác định của Ngân hàng Thế giới, tối đa không quá 77 ngày trong năm 2016; đến năm 2020 còn dưới 70 ngày (bao gồm cả thời gian lấy ý kiến của các cơ quan liên quan như chấp thuận đấu nối điện, nước, môi trường, phòng cháy, chữa cháy, độ tĩnh không...).

- Đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian đăng ký quyền Sở hữu, sử dụng tài sản xuống còn dưới 14 ngày năm 2016; đến năm 2020 còn dưới 10 ngày.

- Rà soát, giảm 20% thời gian giải quyết thủ tục hành chính trong các lĩnh vực giải phóng mặt bằng, thu hồi đất trong năm 2016.

- Xây dựng quy trình, cắt giảm đến 40% thời gian giải quyết thủ tục hành chính về đầu tư trong nước và đầu tư có vốn nước ngoài so với yêu cầu tại các văn bản pháp luật về đầu tư trong năm 2016.

[...]