Kế hoạch 118/KH-UBND năm 2019 về hành động tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và Giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2019-2030 trên địa bàn tỉnh Hòa Bình

Số hiệu 118/KH-UBND
Ngày ban hành 25/06/2019
Ngày có hiệu lực 25/06/2019
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Hòa Bình
Người ký Bùi Văn Cửu
Lĩnh vực Thể thao - Y tế

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 118/KH-UBND

Hòa Bình, ngày 25 tháng 6 năm 2019

 

KẾ HOẠCH

HÀNH ĐỘNG TIẾN TỚI LOẠI TRỪ HIV, VIÊM GAN B VÀ GIANG MAI LÂY TRUYỀN TỪ MẸ SANG CON GIAI ĐOẠN 2019 - 2030 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH

Căn cứ Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Căn cứ Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 25/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia Phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.

Căn cứ Quyết định số 7130/QĐ-BYT ngày 29/11/2018 của Bộ Y tế về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2018 - 2030;

Căn cứ Công văn số 1001/BYT-BM-TE ngày 28/2/2019 của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em về việc Hướng dẫn triển khai Kế hoạch hành động quốc gia tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2018 - 2030;

Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch hành động tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và Giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2019 - 2030 trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, như sau:

I. THỰC TRẠNG DỰ PHÒNG HIV, VIÊM GAN B VÀ GIANG MAI LÂY TRUYỀN TỪ MẸ SANG CON

1. Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con

a) Tuyến tỉnh:

- Hiện tại có 01 phòng điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đặt tại khoa Sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình do dự án VAAC-US-CDC tài trợ từ năm 2008 đến năm 2014 đã dừng tài trợ vì thế hiện nay phòng điều trị chỉ dừng lại ở việc thực hiện thu thập số liệu về phụ nữ nhiễm HIV mang thai.

- Các khoa phòng chống HIV/AIDS và khoa sức khỏe sinh sản của Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh đã phối hợp tốt trong việc quản lý, đào tạo tập huấn, giám sát và hỗ trợ kỹ thuật tuyến cơ sở

b) Tuyến huyện: Các khoa sản của Trung tâm Y tế các huyện thành phố chỉ tư vấn xét nghiệm sàng lọc HIV chưa thực hiện điều trị phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. Những trường hợp xét nghiệm sàng lọc dương tính với HIV được lấy mẫu xét nghiệm khẳng định và chuyển lên Bệnh viện tỉnh để điều trị theo chương trình phòng lây truyền mẹ con.

Cán bộ tham gia chương trình Phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con được tập huấn, đào tạo và cấp chứng nhận đầy đủ, tuy nhiên trong năm 2018 một số cán bộ đã nghỉ hưu và chuyển công tác nên nhng cán bộ mới chưa kịp cập nhật kiến thức và kỹ năng của cán bộ y tế, đặc biệt là cán bộ trong hệ thống CSSKSS về DPLTMC còn hạn chế, đặc biệt là cán bộ tại tuyến cơ sở.

c) Tuyến xã: Khám thai và tư vấn xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai theo quy trình. Tuy nhiên một số trường hợp phụ nữ mang thai có thói quen khám thai dịch vụ và siêu âm dịch vụ, dẫn đến bỏ sót nhiều trường hợp không được tư vấn xét nghiệm HIV và không biết tình trạng nhiễm HIV của mình để được tham gia chương trình điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

d) Thách thức

- Thông tin, giáo dục truyền thông về phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con chưa được đẩy mạnh. Các thông tin về HIV/AIDS đặc biệt là thông tin về phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con chưa được phổ biến đến phụ nữ ở tui sinh sản nhất là phụ nữ mang thai; thông điệp truyền thông còn mang tính chung chung, chưa có nhiều tài liệu truyền thông đặc thù về phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

- Về phối hợp tổ chức triển khai tại địa phương, chưa có sự phối hợp chặt chgiữa các đơn vị trong việc cung cấp dịch vụ chuyển gi, quản lý theo dõi tránh mất dấu bệnh nhân, thống kê và báo cáo.

- Cán bộ y tế, các bà mẹ nhiễm HIV thiếu kiến thức về cách nuôi con. Hệ thống chăm sóc, theo dõi sức khỏe cho các bà mẹ nhiễm HIV và con của họ sau khi sinh hiện chưa có.

- Kinh phí của chương trình Quốc gia hàng năm dành cho chương trình phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con còn hạn chế. Chủ yếu dựa vào kinh phí chương trình mục tiêu Y tế dân sbên cạnh đó còn chưa huy động được nguồn lực của các tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể khác cho chương trình DPLTMC.

2. Dự phòng lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con

Tại Hòa Bình tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B ở các nhóm tuổi nói chung và nhóm phụ nữ mang thai nói riêng còn khá cao nên việc phòng chống lây nhiễm vi rút viêm gan B từ mẹ sang con là rất quan trọng.

Chương trình Tiêm chủng mở rộng đã bắt đầu triển khai tiêm vắc xin viêm gan B từ năm 1997, đến năm 2003 được bao phủ cho trẻ em <1 tuổi trên toàn quốc (khoảng 1,5 triệu trẻ hàng năm) ở Hòa Bình có khoảng 14.000 trẻ sơ sinh hàng năm và từ năm 2006 áp dụng lịch tiêm vắc xin viêm gan B liều sơ sinh trong vòng 24 giờ. Tỷ lệ tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh Hòa Bình đã đạt được 92,9% vào năm 2018. Đmở rộng độ bao phủ liều vắc xin viêm gan B sau sinh, Sở Y tế đã chỉ đạo yêu cầu các cơ sở có phòng đẻ thực hiện tiêm vắc xin viêm gan B cho trẻ trong 24 giờ đầu sau sinh. Tư vấn cũng được lng ghép với các nội dung chăm sóc sức khỏe trước sinh cho phụ nữ mang thai. Chương trình Tiêm chủng mở rộng đã triển khai tiêm vắc xin viêm gan B và liều vắc xin cho trẻ sơ sinh trên toàn tỉnh ở 11 huyện, thành phố.

Thách thức:

- Tỷ lệ tiêm chủng vắc xin viêm gan B trong 24h sau sinh không đng đều ở các địa bàn trong tỉnh. Tỷ lệ tiêm cao chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực thành phố và trung tâm huyện.

- Tiêm kháng huyết thanh viêm gan B cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm vi rút viêm gan B và điều trị thuốc kháng vi rút cho phụ nữ có tải lượng vi rút viêm gan B là can thiệp hiệu qu nhưng chưa được đưa vào Hướng dẫn quốc gia về điều trị viêm gan B tại các cơ sở y tế. Hơn nữa, hiện nay giá thành của huyết thanh còn cao, vượt quá khả năng chi trả của người bệnh.

- Xét nghiệm vi rút viêm gan B cho phụ nữ trước sinh đã được triển khai tại các bệnh viện tuyến tỉnh và các trung tâm y tế tuyến huyện. Tuy nhiên việc xét nghiệm sàng lọc vi rút viêm gan B cho phụ nữ mang thai chưa được coi là xét nghiệm thường quy trong gói chăm sóc trước sinh cũng như chưa có những hướng dẫn của Bộ Y tế về việc kiểm soát nhiễm vi rút viêm gan B cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đặc biệt là phụ nữ mang thai. Việc khám sàng lọc viêm gan cho phụ nữ mang thai hầu hết chưa được thực hiện tại y tế cơ sở.

- Các hoạt động phòng chống bệnh viêm gan vi rút B tại địa phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, cũng như chưa có sự điều phối tng thể để lng ghép các hoạt động.

[...]