Công văn 640/TCT-CS năm 2024 về chính sách thuế do Tổng cục Thuế ban hành

Số hiệu 640/TCT-CS
Ngày ban hành 23/02/2024
Ngày có hiệu lực 23/02/2024
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Thuế
Người ký Lưu Đức Huy
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 640/TCT-CS
V/v chính sách thuế

Hà Nội, ngày 23 tháng 02 năm 2024

 

Kính gửi:

- Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh;
- Công ty TNHH Quan Minh
(Địa chỉ: Thôn 11, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh).

Trả lời công văn số 12304/BC-CTQNI ngày 28/11/2023 của Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh báo cáo vướng mắc về thuế liên quan đến Công ty TNHH Quan Minh, công văn số 88/CV-CTQM ngày 31/10/2023, công văn số 89/CV-CTQM ngày 31/10/2023 và công văn số 93/BC-CTQM ngày 06/11/2023 của Công ty TNHH Quan Minh đề nghị chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ vướng mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

1. Về kiến nghị đối với khoản thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tiền sử dụng khu vực biển:

- Tại Khoản 3 Điều 13 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế quy định:

“Điều 13. Các trường hợp cơ quan quản lý thuế tính thuế, thông báo nộp thuế

3. Trường hợp cơ quan thuế thông báo số tiền thuế phải nộp theo văn bản tính thuế của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyển đến, cụ thể như sau:

a) Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

b) Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

c) Tiền sử dụng khu vực biển.”

Căn cứ quy định trên, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tiền sử dụng khu vực biển là khoản thu mà cơ quan thuế thông báo số tiền thuế phải nộp theo văn bản tính thuế của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyển đến.

- Về nội dung kiến nghị về gia hạn nộp, không tính tiền chậm nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tiền sử dụng khu vực biển:

Căn cứ Khoản 27 Điều 3, Điều 62 Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14, việc gia hạn nộp thuế được xem xét trên cơ sở đề nghị của người nộp thuế thuộc một trong các trường hợp sau: (i) BỊ thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp trường hợp bất khả kháng (bao gồm: người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ và các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ) hoặc (ii) Phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh. Theo đó, không có cơ sở xem xét, giải quyết đề nghị gia hạn nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tiền sử dụng khu vực biển đối với Công ty TNHH Quan Minh theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong tình hình dịch bệnh Covid-19, Chính phủ đã có nhiều chính sách miễn, giảm gia hạn nộp thuế, nộp tiền thuê đất để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong thời gian chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 (Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020, Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020, Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg ngày 10/8/2020, Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021,..) nhưng không có quy định về miễn, giảm, gia hạn, tạm hoãn nộp, không tính tiền chậm nộp đối với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tiền sử dụng khu vực biển. Vì vậy, nội dung kiến nghị về miễn, giảm, gia hạn, tạm hoãn nộp, không tính tiền chậm nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tiền sử dụng khu vực biển đối với Công ty TNHH Quan Minh để hỗ trợ do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 là không có cơ sở pháp lý và không đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp khác.

- Đối với kiến nghị về điều chỉnh thời gian khai thác đồng thời điều chỉnh thời gian thông báo nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, cho nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm; phê duyệt lại việc thu tiền sử dụng khu vực biển của mỏ cát khai thác dưới mực nước biển cho phù hợp với thời gian, điều kiện kinh tế - xã hội nơi khai thác khoáng sản và diện tích sử dụng khu vực biển thực tế không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tổng cục Thuế. Tổng cục Thuế sẽ báo cáo Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường để hướng dẫn Công ty thực hiện khi có văn bản lấy ý kiến từ Bộ Tài nguyên và Môi trường.

2. Về kiến nghị liên quan đến thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường Dự án nạo vét luồng theo hình thức xã hội hóa:

- Tại Khoản 5 Điều 59 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội có quy định như sau:

“Điều 59. Xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế

5. Không tính tiền chậm nộp trong các trường hợp sau đây:

a) Người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán thì không phải nộp tiền chậm nộp.

Số tiền nợ thuế không tính chậm nộp là tổng số tiền thuế còn nợ ngân sách nhà nước của người nộp thuế nhưng không vượt quá số tiền ngân sách nhà nước chưa thanh toán;

b) Các trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 55 của Luật này thì không tính tiền chậm nộp trong thời gian chờ kết quả phân tích, giám định; trong thời gian chưa có giá chính thức; trong thời gian chưa xác định được khoản thực thanh toán, các khoản điều chỉnh cộng vào trị giá hải quan.”

- Tại Khoản 5 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế quy định:

“Điều 7. Hồ sơ khai thuế

5. Tổ chức, cá nhân thực hiện khai thuế thay, nộp thuế thay cho người nộp thuế phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quy định về khai thuế, nộp thuế như quy định đối với người nộp thuế tại Nghị định này, bao gồm:

a) Tổ chức, cá nhân thực hiện khai thuế thay, nộp thuế thay cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế...”

Liên quan đến chính sách thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với cát tận thu từ Dự án nạo vét luồng khu vực huyện Vân Đồn của Công ty TNHH Quan Minh, Tổng cục Thuế đã có công văn số 554/TCT-CS ngày 04/02/2016 hướng dẫn Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh thực hiện (bản photocopy công văn số 554/TCT-CS kèm theo).

Pháp luật về thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản hiện hành đã có quy định rõ về người nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường, giá tính thuế tài nguyên, mức thuế suất thuế tài nguyên, mức thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản, không có quy định về việc nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường thay cho Công ty khác. Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh có trách nhiệm thực hiện quản lý thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường theo đúng quy định của pháp luật. Luật Quản lý thuế và pháp luật hiện hành có liên quan không có quy định về việc không tính tiền chậm nộp, cho phép đối trừ, miễn giảm nghĩa vụ nộp thuế đối với những thiệt hại phát sinh do doanh nghiệp thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh. Vì vậy, đối với thỏa thuận giữa Công ty TNHH Quan Minh và Công ty Mặt trời Hạ Long để giải quyết vấn đề liên quan đến bãi tắm công cộng tại địa phương không thuộc trách nhiệm giải quyết của Tổng cục Thuế. Đề nghị Công ty TNHH Quan Minh báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh để giải quyết phù hợp với thực tế địa phương và quy định của pháp luật.

3. Về thực hiện thanh tra tại Doanh nghiệp theo chuyên đề khai thác tài nguyên khoáng sản đối với Công ty TNHH Quan Minh trong năm 2024:

[...]