Công văn 4543/BYT-VPB1 năm 2024 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang trước Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành

Số hiệu 4543/BYT-VPB1
Ngày ban hành 06/08/2024
Ngày có hiệu lực 06/08/2024
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Bộ Y tế
Người ký Đào Hồng Lan
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Thể thao - Y tế

BỘ Y TẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 4543/BYT-VPB1
V/v trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang trước Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Hà Nội, ngày 06 tháng 8 năm 2024

 

Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang

Bộ Y tế nhận được Công văn số 499/BDN ngày 14/6/2024 của Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới trước kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, trong đó có một số kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang.

Bộ Y tế xin trả lời đối với từng kiến nghị liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế, cụ thể như sau:

1. Cử tri đề nghị đảm bảo việc cung ứng thuốc tại các cơ sở y tế nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân, đặc biệt là đối với các thuốc điều trị bệnh mãn tính như tiểu đường, cao huyết áp, xương khớp, ...

Trong thời gian vừa qua, nguồn cung ứng thuốc, thiết bị y tế cơ bản đảm bảo cho cả nhu cầu sử dụng trong các cơ sở khám chữa bệnh và ngoài thị trường bán lẻ. Tình trạng thiếu thuốc, thiết bị y tế chỉ xảy ra cục bộ do vẫn tồn tại một số nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng hậu đại dịch COVID-19 và chiến tranh tại Châu Âu dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu như Albumin, Globulin...; bên cạnh đó cũng có nguyên nhân chủ quan như các cơ sở y tế, địa phương chưa sát sao trong việc chỉ đạo đảm bảo cung ứng thuốc (thiếu chủ động trong dự trù, xác định nhu cầu, lập kế hoạch, thực hiện công tác đấu thầu, mua sắm...). Việc thiếu nguồn cung ứng thuốc chủ yếu xảy ra ở nhóm thuốc rất hiếm (thuốc chống độc, giải độc tố (BAT), huyết thanh kháng nọc rắn...) do không xác định được nhu cầu vì các bệnh ít gặp và không lường trước về thời điểm, số lượng.

Ngày 27/2/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu đã được ban hành nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đấu thầu mua thuốc, hóa chất, vật tư xét nghiệm và thiết bị y tế. Bộ Y tế thấy rằng việc ban hành Thông tư hướng dẫn đối với Nghị định số 24/2024/NĐ-CP là vô cùng cần thiết để các đơn vị, địa phương có cơ sở pháp lý cụ thể, thống nhất và đồng bộ trong thực hiện các hoạt động đấu thầu mua sắm.Theo đó, Bộ Y tế đã và đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành liên quan để hoàn thiện các Thông tư hướng dẫn chi tiết, dự kiến sẽ ban hành trong thời gian sớm nhất. Cùng với đó Bộ Y tế đã tiến hành xây dựng, hoàn thiện và ban hành các Thông tư hướng dẫn bao gồm: (1) Thông tư số 03/2024/TT-BYT ngày 16/4/2024 ban hành danh mục thuốc có ít nhất 03 hãng trong nước sản xuất trên dây chuyền sản xuất thuốc đáp ứng nguyên tắc, tiêu chuẩn EU-GMP hoặc tương đương EU-GMP và đáp ứng tiêu chí kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế và về chất lượng, giá, khả năng cung cấp; (2) Thông tư số 04/2024/TT-BYT ngày 20/4/2024 quy định Danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc; (3) Thông tư số 05/2024/TT-BYT ngày 14/5/2024 quy định Danh mục thuốc, thiết bị y tế, vật tư xét nghiệm được áp dụng hình thức đàm phán giá và quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu đối với các gói thầu áp dụng hình thức đàm phán giá; (4) Thông tư số 07/2024/TT-BYT ngày 17/5/2024 quy định về đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế công lập. Các Thông tư này giúp các bệnh viện và cơ sở y tế có cơ sở pháp lý cụ thể để triển khai hoạt động đấu thầu, mua sắm, góp phần tháo gỡ các khó khăn hiện tại và nâng cao hiệu quả cung ứng thuốc, thiết bị y tế.

Để tiếp tục giải quyết tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã tích cực rà soát và hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư, trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cho các bệnh viện; triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, bao gồm: (1) Bộ Y tế đã xây dựng và trình Chính phủ, Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật quan trọng như: Nghị quyết số 80/2023/QH15 ngày 09/1/2023 của Quốc hội về việc cho phép các thuốc đủ điều kiện được gia hạn duy trì hiệu lực lưu hành đến hết năm 2024[1]; Nghị định số 07/2023/NĐ-CP ngày 03/3/2024 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế; Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 04/3/2023 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện các giải pháp để bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế. (2) Đẩy nhanh tiến độ thẩm định và cấp giấy đăng ký lưu hành[2]. (3) Phối hợp với các tổ chức quốc tế: Tranh thủ sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) để viện trợ một số loại thuốc rất hiếm. (4) Bộ Y tế cũng đã tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn cán bộ y tế tại các cơ sở và địa phương về quy trình đấu thầu, mua sắm vật tư y tế, nhằm nâng cao năng lực và trách nhiệm của cán bộ y tế trong việc quản lý và đảm bảo nguồn cung ứng. Việc rà soát và hoàn thiện các cơ chế, chính sách này đã góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế, đảm bảo bệnh nhân được chữa trị kịp thời, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của Nhân dân.

2. Cử tri tiếp tục đề nghị áp dụng việc mua bảo hiểm y tế đối với học sinh theo diện hộ gia đình nhằm giảm bớt chi phí. Trường hợp không thể áp dụng việc mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình thì cần quy định đối với trường hợp gia đình có từ 02 con em là học sinh trở lên nên có mức mua bảo hiểm y tế theo thang bậc như diện hộ gia đình. Bên cạnh đó, cử tri đề nghị miễn mua bảo hiểm y tế đối với học sinh cấp 1, áp dụng tính phí mua bảo hiểm y tế theo thang bậc khi gia đình có nhiều con em đi học đối với học sinh từ cấp 2 đến bậc đại học.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật Bảo hiểm y tế về trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế: “Trường hợp một người đồng thời thuộc nhiều đối tượng tham gia bảo hiểm y tế khác nhau quy định tại Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế thì đóng bảo hiểm y tế theo đối tượng đầu tiên mà người đó được xác định theo thứ tự của các đối tượng quy định tại Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế. Do đó, học sinh, sinh viên không thuộc nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình.

Bộ Y tế ghi nhận ý kiến đề nghị của cử tri và sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế trong thời gian tới, nhằm xem xét và điều chỉnh phù hợp với thực tiễn, đảm bảo quyền lợi và giảm bớt chi phí cho các gia đình cố nhiều con em đi học.

3. Hiện nay, mức đóng bảo hiểm y tế đối với người tham gia lần đầu là 972.000 đồng/người là cao hơn so với thu nhập, mức sống của một bộ phận người dân. Cử tri đề nghị giảm mức đóng bảo hiểm y tế phù hợp để thu hút người dân tham gia bảo hiểm y tế và giảm bớt khó khăn về kinh phí khi tham gia.

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng tối đa bằng 6% mức tiền lương hoặc tiền lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp thất nghiệp hoặc mức lương cơ sở. Trên cơ sở quy định của Luật, Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế đã quy định mức đóng bảo hiểm y tế là 4,5%.

Dựa trên phạm vi quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, Quốc hội và Chính phủ đã quy định mức đóng bảo hiểm y tế dựa trên điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng đóng góp của nhà nước, doanh nghiệp, người lao động và người dân. Để khuyến khích và hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm y tế, Nghị định số 146/2018/NĐ-CP, và Nghị định số 75/2023/NĐ-CP ngày 19/10/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế đã quy định các mức đóng và hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số, người sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, hộ nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình.

Đối với nhóm tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, điểm e khoản 1 Điều 7 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP quy định mức đóng bảo hiểm y tế như sau:

- Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở.

- Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất.

- Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Theo quy định này, với mức lương cơ sở là 1.800.000 đồng (trước ngày 01/7/2024), mức đóng của người thứ nhất tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình sẽ là 972.000 đồng/người/năm. Đối với người thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ năm, mức đóng sẽ giảm dần lần lượt là 688.400 đồng, 583.200 đồng, 486.000 đồng và 388.800 đồng.

Hiện nay, GDP bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 4.284 USD/năm. Với phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế được hưởng tương đối đầy đủ, mức đóng bảo hiểm y tế hiện tại được đánh giá là tương đối thấp so với các nước có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tương đồng. Vì vậy, Bộ Y tế mong cử tri thấu hiểu và ủng hộ chính sách bảo hiểm y tế của Đảng và Nhà nước, tích cực tham gia bảo hiểm y tế để đảm bảo tài chính khi ốm đau, bệnh tật.

4. Cử tri đề nghị khi thực hiện hỗ trợ bảo hiểm y tế đối với người có công, cần hỗ trợ luôn đối với các nhân khẩu trong gia đình của người có công tương tự như chính sách hỗ trợ bảo hiểm xã hội áp dụng đối với người nghèo, người cận nghèo.

Bảo hiểm y tế thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia. Mức đóng và mức hưởng bảo hiểm y tế được quy định cụ thể trong Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn, dựa trên khả năng đóng góp của các nhóm đối tượng, mức lương cơ sở, phạm vi quyền lợi và khả năng cân đối quỹ bảo hiểm y tế.

Theo quy định cửa Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 ngày 09/12/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh Ưu đãi người có công với Cách mạng và Luật Bảo hiểm y tế, nhóm đối tượng do ngân sách nhà nước đóng bao gồm thân nhân của người có công với cách mạng, cụ thể:

- Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.

- Thân nhân của người có công với cách mạng, trừ các đối tượng cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.

- Thân nhân của liệt sĩ, bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ; người có công nuôi liệt sĩ.

- Thân nhân của người có công (vợ hoặc chồng, con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng) của người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945, người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

- Thân nhân của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến (cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng).

- Thân nhân của thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên (cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng).

[...]