Công văn 451/TCT-TNCN về quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2009 do Tổng cục Thuế ban hành

Số hiệu 451/TCT-TNCN
Ngày ban hành 08/02/2010
Ngày có hiệu lực 08/02/2010
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Thuế
Người ký Phạm Duy Khương
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------

Số: 451/TCT-TNCN
V/v: Quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2009.

Hà Nội, ngày 08 tháng 02 năm 2010

 

Kính gửi: Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Năm 2009 là năm đầu tiên thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN), có nhiều nội dung mới, phương pháp quản lý thuế nói chung và quyết toán thuế nói riêng cũng có sửa đổi, bổ sung.

Năm 2009 cũng là năm Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội; Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 hướng dẫn việc miễn thuế TNCN theo Nghị quyết số 32/2009/QH12 của Quốc hội. Theo đó, một số khoản thu nhập được miễn thuế TNCN; các tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập (sau đây gọi chung là đơn vị chi trả thu nhập) và cá nhân có thu nhập khi quyết toán thuế năm 2009 không phải kê khai đối với các khoản thu nhập được miễn này.

Để việc quyết toán thuế TNCN năm 2009 được thực hiện theo đúng quy định của Luật thuế TNCN, Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế TNCN, và các văn bản hướng dẫn thi hành của Bộ Tài chính; Tổng cục Thuế hướng dẫn việc quyết toán thuế TNCN năm 2009 như sau:

I. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG QUYẾT TOÁN THUẾ TNCN VÀ HỒ SƠ QUYẾT TOÁN THUẾ TNCN:

1. Đối tượng phải quyết toán thuế TNCN:

Theo hướng dẫn tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì các đối tượng phải quyết toán thuế TNCN bao gồm:

- Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập;

- Cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh có số thuế phải nộp lớn hơn số thuế đã khấu trừ, tạm nộp; hoặc cá nhân có yêu cầu hoàn thuế hoặc bù trừ số thuế nộp thừa vào kỳ sau;

Cơ quan thuế trực tiếp quản lý các đơn vị chi trả thu nhập, cá nhân nộp thuế phải chủ động thông báo sớm nghĩa vụ quyết toán thuế để các đối tượng phải quyết toán thuế được biết; đồng thời phổ biến, hướng dẫn cho các đơn vị chi trả thu nhập và cá nhân thực hiện kê khai, nộp hồ sơ quyết toán thuế theo đúng quy định.

2. Về kê khai quyết toán thuế của tổ chức chi trả thu nhập:

Theo hướng dẫn tại Thông tư số 160/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính thì đơn vị chi trả thu nhập chỉ phải kê khai quyết toán thuế đối với các khoản thu nhập chi trả không thuộc diện được miễn thuế TNCN, các khoản thu nhập thuộc diện được miễn thuế không phải kê khai; cụ thể như sau:

2.1. Các khoản thu nhập phải kê khai quyết toán:

a. Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công:

Nếu chi trả cho cá nhân cư trú (đối tượng được miễn thuế 6 tháng đầu năm 2009 theo hướng dẫn tại Thông tư số 160/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính); đơn vị chi trả thu nhập không phải kê khai quyết toán đối với phần thu nhập thuộc diện được miễn thuế trong 6 tháng đầu năm 2009, chỉ phải kê khai quyết toán đối với thu nhập chịu thuế và số thuế đã khấu trừ phát sinh từ ngày 01/7/2009 đến hết ngày 31/12/2009. Cụ thể các khoản thu nhập thuộc diện được miễn thuế, không phải kê khai quyết toán xác định như sau:

- Đối với tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hoặc theo quyết định lương thì thu nhập được miễn thuế TNCN được xác định căn cứ vào Bảng thanh toán tiền lương, tiền công chi trả từ tháng 01/2009 đến hết tháng 06/2009 mà không phụ thuộc vào tháng hạch toán khoản tiền lương đó vào chi phí của doanh nghiệp.

Ví dụ: Công ty A hạch toán 100 triệu chi phí tiền lương vào chi phí kinh doanh tháng 12/2008 nhưng chi trả cho người lao động theo bảng lương của tháng 01/2009 thì khoản tiền lương này được xác định là tháng lương đầu tiên của năm 2009 được miễn thuế. Tháng 6/2009, Công ty A hạch toán 100 triệu chi phí tiền lương vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế khoản tiền lương này được chi trả cho người lao động theo bảng lương của tháng 7/2009 thì khoản tiền lương này không thuộc diện được miễn thuế TNCN vì tính theo bảng lương từ tháng 01 đến hết tháng 6/2009 người lao động đã được miễn thuế TNCN đủ 06 tháng.

Trường hợp đơn vị chi trả thu nhập áp dụng trả lương theo kết quả công việc, hàng tháng chỉ tạm thanh toán tiền lương, kết thúc công việc hoặc cuối năm mới quyết toán thì thu nhập được miễn thuế của 6 tháng đầu năm sẽ được xác định theo số thực quyết toán.

Trường hợp vì lý do khách quan người lao động nhận được tiền lương của các tháng từ tháng 01 đến hết tháng 06/2009 trong khoảng thời gian từ ngày 01/7/2009 đến ngày 31/12/2009 thì khoản thu nhập này vẫn thuộc diện được miễn thuế TNCN.

- Đối với tiền lương, tiền công của năm 2008 trở về trước nhưng chi trả trong 6 tháng đầu năm 2009 thì vẫn thuộc thu nhập được miễn thuế, đơn vị chi trả thu nhập cũng không phải kê khai quyết toán thuế; nếu chi trả vào 6 tháng cuối năm 2009 thì phải kê khai vào thu nhập chịu thuế để quyết toán thuế năm 2009.

- Đối với các khoản tiền thưởng:

+ Trường hợp đơn vị chi trả thu nhập chi tiền thưởng tháng (của các tháng từ tháng 01 đến hết tháng 06/2009) hoặc chi tiền thưởng quý I, quý II/2009 trong năm 2009 thì không phải kê khai quyết toán đối với khoản thu nhập này. Nếu đơn vị chi trả các khoản tiền thưởng này sau ngày 31/12/2009 thì không thuộc diện được miễn thuế TNCN, đơn vị chi trả không phải kê khai quyết toán thuế TNCN năm 2009 đối với khoản thu nhập này mà sẽ tính vào thu nhập của người lao động trong năm 2010.

+ Trường hợp đơn vị chi trả thu nhập chi tiền thưởng của cả năm 2009 một lần thì: đối với người lao động làm việc đủ 12 tháng trong năm thì ½ số tiền thưởng cả năm sẽ được miễn thuế TNCN (đơn vị chi trả không phải kê khai quyết toán thuế), ½ số tiền thưởng cả năm không được miễn thuế TNCN, đơn vị chi trả phải kê khai quyết toán năm 2009; đối với người lao động làm việc không đủ 12 tháng trong năm thì khoản tiền thưởng sẽ được phân chia tương ứng với số tháng làm việc để áp dụng miễn thuế.

Ví dụ: Trong năm 2009, ông A làm việc tại công ty X tổng cộng là 8 tháng (từ 01/5/2009 đến 31/12/2009), Cuối năm ông A được Công ty thưởng cho 6 triệu đồng cho thành tích công tác của cả năm. Số tiền thưởng năm thuộc diện miễn thuế TNCN của ông A được xác định như sau:

Trong 6 tháng đầu năm ông A làm việc được 02 tháng, tương đương ¼ thời gian làm việc của ông A trong năm 2009 (2 tháng/8 tháng). Như vậy số tiền thưởng được miễn thuế TNCN là: 1,5 triệu đồng (= 1/4 x 6 triệu đồng).

Trường hợp khoản tiền thưởng năm 2009 được chi trả vào quý I năm 2010 thì đơn vị chi trả không phải kê khai quyết toán thuế năm 2010 đối với phần tiền thưởng thuộc diện được miễn thuế; phần tiền thưởng không thuộc diện được miễn thuế đơn vị chi trả phải khấu trừ thuế và kê khai quyết toán thuế năm 2010. Cách thức xác định số tiền thưởng thuộc diện được miễn thuế và không thuộc diện được miễn thuế thực hiện tương tự như trường hợp chi trả trong năm 2009.

+ Tương tự như tiền lương, đối với tiền thưởng của năm 2008 trở về trước nếu chi trả trong 6 tháng đầu năm 2009 thì vẫn thuộc thu nhập được miễn thuế, nếu chi trả trong 6 tháng cuối năm 2009 thì phải kê khai vào thu nhập chịu thuế để quyết toán thuế năm 2009.

- Đối với các khoản lợi ích khác (bằng tiền hoặc không bằng tiền): nếu chi trả trong 6 tháng đầu năm 2009 thì không phải kê khai quyết toán, nếu chi vào 6 tháng cuối năm 2009 thì phải kê khai quyết toán thuế năm 2009.

[...]