Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Công văn 3854/VKSTC-V9 năm 2024 giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 3854/VKSTC-V9
Ngày ban hành 09/09/2024
Ngày có hiệu lực 09/09/2024
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Nguyễn Tiến Sơn
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3854/VKSTC-V9
V/v Giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình

Hà Nội, ngày 09 tháng 9 năm 2024

 

Kính gửi:

- Viện trưởng VKSND cấp cao 1, 2, 3;
- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Viện trưởng VKSND cấp huyện.

Thực hiện Kế hoạch số 59/KH-VKSTC ngày 26/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) về tổ chức hội nghị giao ban công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự; công tác kháng nghị và công tác giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm, Vụ Kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình (Vụ 9) VKSNDTC nhận được các câu hỏi của VKSND cấp dưới về công tác kiểm sát này. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo VKSNDTC, Vụ 9 đã tổng hợp, phối hợp với Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14) VKSNDTC trả lời như sau:

I. VỀ VIỆC THỰC HIỆN BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN

Câu 1.

a) Hiện nay, việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) chưa được hướng dẫn. Trên thực tế có Toà án mặc định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm cả thời hạn gia hạn nên đương sự thường gửi đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết vụ án (VKSND tỉnh Lâm Đồng).

b) BLTTDS không quy định Tòa án phải gửi quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử cho Viện kiểm sát nên Viện kiểm sát không có căn cứ để xác định Toà án có vi phạm quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử không (VKSND tỉnh Hà Tĩnh).

Trả lời:

a) Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định các trường hợp gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử là “vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan như sau: Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”.

Khoản 3 Điều 14 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử (thế nào là vụ án có tính chất phức tạp, trở ngại khách quan, lý do chính đáng). Hiện nay, mặc dù Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP đã hết hiệu lực nhưng nếu quy định về vấn đề này của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và BLTTDS năm 2015 không có điểm gì khác biệt thì vẫn có thể tham khảo để áp dụng.

Việc mặc định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm cả thời hạn gia hạn mà vụ án không thuộc trường hợp có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan là không đúng.

b) Viện kiểm sát căn cứ ngày, tháng, năm Toà án thụ lý vụ án (theo Thông báo về việc thụ lý vụ án) và khoản 1 Điều 203 BLTTDS để kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử. Hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà Toà án không ban hành 01 trong 04 quyết định quy định tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS thì có thể trao đổi với Toà án để nắm được vụ án có được gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử không.

Trong Danh mục 93 biểu mẫu trong tố tụng dân sự (được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) không có mẫu Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nên Toà án có thể không ban hành quyết định riêng về việc này. BLTTDS không quy định Toà án phải thông báo cho Viện kiểm sát về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.

Do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên toà, Kiểm sát viên kiểm sát việc Toà án thực hiện quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử (nếu có). Nếu có căn cứ cho thấy Toà án có vi phạm thì Kiểm sát viên phát biểu nêu rõ tại phiên toà. Nếu vi phạm là phổ biến thì Viện kiểm sát tổng hợp để kiến nghị bằng văn bản với Toà án.

Câu 2. Khoản 3 Điều 280 BLTTDS quy định: "Khi Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý do". Như vậy, có phải BLTTDS cho phép Viện kiểm sát kháng nghị quá hạn không? (VKSND tỉnh Hoà Bình).

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 280 BLTTDSĐiều 16 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 thì trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm quá hạn, nếu Toà án yêu cầu thì Viện kiểm sát phải có văn bản giải thích lý do kháng nghị quá hạn. Việc xác định kháng nghị có quá hạn hay không căn cứ vào ngày, tháng, năm ghi trên quyết định kháng nghị. BLTTDS không quy định thủ tục xem xét kháng nghị quá hạn. Tuy nhiên, với trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, đã kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ngay từ khi Toà án thụ lý, Viện kiểm sát phải thực hiện đúng quy định của BLTTDS về thời hạn kháng nghị phúc thẩm.

Câu 3. Theo quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS thì “Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật này thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án”. Như vậy, khi Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ mà thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ hoặc có hoạt động tố tụng Toà án thực hiện chưa đúng thì sẽ ra văn bản yêu cầu. Thời điểm đó các vụ án đã gần đến ngày mở phiên toà nên Tòa án thường không thực hiện được yêu cầu của Viện kiểm sát, dẫn đến vi phạm về tố tụng không được khắc phục triệt để hoặc phải tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ (VKSND tỉnh Lâm Đồng).

Trả lời:

Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016. Để thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát trước khi mở phiên toà, Toà án có thể gia hạn thời hạn mở phiên toà theo khoản 4 Điều 203 BLTTDS (gia hạn 01 tháng); nếu vẫn chưa thực hiện xong việc xác minh, thu thập chứng cứ mà thời hạn mở phiên toà đã hết thì Toà án vẫn phải mở phiên toà và có thể quyết định tạm ngừng phiên toà, tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 259 BLTTDS.

Thực tế có nhiều Viện kiểm sát phối hợp tốt với Toà án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nên có thể đưa ra yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Câu 4. Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC- TANDTC ngày 31/8/2016 quy định trách nhiệm của Tòa án khi thực hiện quyền yêu cầu của VKS như sau: “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”. Tuy nhiên, thực tiễn có trường hợp Tòa án không thực hiện yêu cầu của VKS hoặc thực hiện không triệt để nhưng không có văn bản thông báo lý do dẫn đến Kiểm sát viên bị động trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, đề xuất hướng giải quyết, báo cáo Lãnh đạo duyệt trước khi tham gia phiên tòa (các VKS: Lâm Đồng, Trà Vinh).

Trả lời:

Trong trường hợp trên, nếu Viện kiểm sát nhận thấy do không xác minh, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ nên không đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì thực hiện theo khoản 5 Điều 23 Quy chế số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự như sau: “Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên tòa, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nêu rõ việc chưa có đủ cơ sở để giải quyết vụ án vì thiếu những chứng cứ mà Kiểm sát viên đã yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập bổ sung”.

Đối với việc Tòa án không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của VKS nhưng không có văn bản thông báo lý do theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016 thì Kiểm sát viên kiến nghị ngay tại phiên toà hoặc Viện kiểm sát tổng hợp để ban hành kiến nghị chung.

Vụ việc thuộc trường hợp này cần lưu ý xem xét kháng nghị ngay sau phiên toà, Viện kiểm sát chủ động thực hiện quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để quyết định kháng nghị nếu thấy cần thiết.

Câu 5. Theo Điều 262 BLTTDS, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến sau khi người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Như vậy các đương sự không được có ý kiến đối đáp với phát biểu này của Kiểm sát viên là không bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự (VKSND tỉnh Lâm Đồng).

Trả lời:

Khoản 1 Điều 21 BLTTDS năm 2015 quy định “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”. Nhiệm vụ, quyền hạn và trình tự, thủ tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên toà do BLTTDS quy định và phải được thực hiện đúng.

[...]