Kính gửi:
|
- Viện trưởng VKSND cấp cao 1, 2, 3;
- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Viện trưởng VKSND cấp huyện.
|
Thực hiện Kế hoạch số
59/KH-VKSTC ngày 26/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) về tổ
chức hội nghị giao ban công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính,
vụ việc dân sự; công tác kháng nghị và công tác giải quyết đơn giám đốc thẩm,
tái thẩm, Vụ Kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình
(Vụ 9) VKSNDTC nhận được các câu hỏi của VKSND cấp dưới về công tác kiểm sát
này. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo VKSNDTC, Vụ 9 đã tổng hợp, phối hợp
với Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14) VKSNDTC trả lời như sau:
I. VỀ VIỆC
THỰC HIỆN BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT KHÁC LIÊN
QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN
Câu 1.
a) Hiện nay, việc gia hạn thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự
kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan quy định tại khoản 1 Điều
203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) chưa được hướng dẫn. Trên thực
tế có Toà án mặc định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm cả thời hạn gia hạn nên
đương sự thường gửi đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết vụ án (VKSND tỉnh
Lâm Đồng).
b) BLTTDS không quy định Tòa
án phải gửi quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử cho Viện kiểm sát nên
Viện kiểm sát không có căn cứ để xác định Toà án có vi phạm quy định về thời hạn
chuẩn bị xét xử không (VKSND tỉnh Hà Tĩnh).
Trả lời:
a) Khoản 1 Điều
203 BLTTDS năm 2015 quy định các trường hợp gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
là “vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan”. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định về sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan như sau: “Sự kiện
bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh
khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về
việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”.
Khoản 3 Điều 14
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao có hướng dẫn về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử (thế nào
là vụ án có tính chất phức tạp, trở ngại khách quan, lý do chính đáng). Hiện
nay, mặc dù Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP đã hết hiệu lực nhưng nếu quy định về
vấn đề này của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và BLTTDS năm 2015
không có điểm gì khác biệt thì vẫn có thể tham khảo để áp dụng.
Việc mặc định thời hạn chuẩn bị
xét xử bao gồm cả thời hạn gia hạn mà vụ án không thuộc trường hợp có tính chất
phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan là không đúng.
b) Viện kiểm sát căn cứ ngày,
tháng, năm Toà án thụ lý vụ án (theo Thông báo về việc thụ lý vụ án) và khoản 1 Điều 203 BLTTDS để kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử. Hết
thời hạn chuẩn bị xét xử mà Toà án không ban hành 01 trong 04 quyết định quy định
tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS thì có thể trao đổi với Toà án để
nắm được vụ án có được gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử không.
Trong Danh mục 93 biểu mẫu
trong tố tụng dân sự (được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày
13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) không có mẫu Quyết định
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nên Toà án có thể không ban hành quyết định
riêng về việc này. BLTTDS không quy định Toà án phải thông báo cho Viện kiểm
sát về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ
án để tham gia phiên toà, Kiểm sát viên kiểm sát việc Toà án thực hiện quy định
về thời hạn chuẩn bị xét xử, gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử (nếu có). Nếu có
căn cứ cho thấy Toà án có vi phạm thì Kiểm sát viên phát biểu nêu rõ tại phiên
toà. Nếu vi phạm là phổ biến thì Viện kiểm sát tổng hợp để kiến nghị bằng văn bản
với Toà án.
Câu 2. Khoản
3 Điều 280 BLTTDS quy định: "Khi Tòa án nhận được quyết định kháng
nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu
Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý do". Như vậy, có phải
BLTTDS cho phép Viện kiểm sát kháng nghị quá hạn không? (VKSND tỉnh Hoà
Bình).
Trả lời:
Theo quy định tại khoản
3 Điều 280 BLTTDS và Điều 16 Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 thì trường hợp Viện kiểm sát
kháng nghị phúc thẩm quá hạn, nếu Toà án yêu cầu thì Viện kiểm sát phải có văn
bản giải thích lý do kháng nghị quá hạn. Việc xác định kháng nghị có quá hạn
hay không căn cứ vào ngày, tháng, năm ghi trên quyết định kháng nghị. BLTTDS
không quy định thủ tục xem xét kháng nghị quá hạn. Tuy nhiên, với trách nhiệm của
cơ quan tiến hành tố tụng, đã kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ngay từ
khi Toà án thụ lý, Viện kiểm sát phải thực hiện đúng quy định của BLTTDS về thời
hạn kháng nghị phúc thẩm.
Câu 3. Theo quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS thì “Trường hợp Viện kiểm sát tham
gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật
này thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện
kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ Viện kiểm
sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án”. Như vậy, khi Kiểm sát
viên nghiên cứu hồ sơ mà thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ hoặc có hoạt
động tố tụng Toà án thực hiện chưa đúng thì sẽ ra văn bản yêu cầu. Thời điểm đó
các vụ án đã gần đến ngày mở phiên toà nên Tòa án thường không thực hiện được
yêu cầu của Viện kiểm sát, dẫn đến vi phạm về tố tụng không được khắc phục triệt
để hoặc phải tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng
cứ (VKSND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Viện kiểm sát yêu cầu Toà án
xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 22 Thông tư
liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016. Để thực hiện việc
xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát trước khi mở phiên
toà, Toà án có thể gia hạn thời hạn mở phiên toà theo khoản 4
Điều 203 BLTTDS (gia hạn 01 tháng); nếu vẫn chưa thực hiện xong việc xác
minh, thu thập chứng cứ mà thời hạn mở phiên toà đã hết thì Toà án vẫn phải mở
phiên toà và có thể quyết định tạm ngừng phiên toà, tạm đình chỉ giải quyết vụ
án theo điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 259 BLTTDS.
Thực tế có nhiều Viện kiểm sát
phối hợp tốt với Toà án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nên có thể đưa ra yêu cầu
xác minh, thu thập chứng cứ trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Câu 4. Điều
22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC- TANDTC ngày 31/8/2016 quy định
trách nhiệm của Tòa án khi thực hiện quyền yêu cầu của VKS như sau: “Trường
hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể
thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết
thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo
cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”. Tuy nhiên, thực tiễn có
trường hợp Tòa án không thực hiện yêu cầu của VKS hoặc thực hiện không triệt để
nhưng không có văn bản thông báo lý do dẫn đến Kiểm sát viên bị động trong quá
trình nghiên cứu hồ sơ, đề xuất hướng giải quyết, báo cáo Lãnh đạo duyệt trước
khi tham gia phiên tòa (các VKS: Lâm Đồng, Trà Vinh).
Trả lời:
Trong trường hợp trên, nếu Viện
kiểm sát nhận thấy do không xác minh, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ nên
không đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì thực hiện theo khoản 5
Điều 23 Quy chế số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 về công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự như sau: “Kiểm sát viên tiếp tục tham gia
phiên tòa, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nêu rõ việc chưa có đủ cơ sở để
giải quyết vụ án vì thiếu những chứng cứ mà Kiểm sát viên đã yêu cầu Tòa án xác
minh, thu thập bổ sung”.
Đối với việc Tòa án không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của VKS
nhưng không có văn bản thông báo lý do theo quy định tại khoản
2 Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016 thì Kiểm sát viên kiến nghị ngay tại
phiên toà hoặc Viện kiểm sát tổng hợp để ban hành kiến nghị chung.
Vụ việc thuộc trường hợp này cần
lưu ý xem xét kháng nghị ngay sau phiên toà, Viện kiểm sát chủ động thực hiện
quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để quyết định kháng nghị nếu thấy cần
thiết.
Câu 5. Theo Điều
262 BLTTDS, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến sau khi người tham gia tố tụng
phát biểu tranh luận và đối đáp xong, trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Như vậy
các đương sự không được có ý kiến đối đáp với phát biểu này của Kiểm sát viên
là không bảo đảm quyền tranh tụng của các đương sự (VKSND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Khoản 1 Điều 21
BLTTDS năm 2015 quy định “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo
quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời,
đúng pháp luật”. Nhiệm vụ, quyền hạn và trình tự, thủ tục thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên toà do BLTTDS quy định và phải được thực
hiện đúng.
Trong tố tụng dân sự, Kiểm sát
viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật của của Tòa án, người tiến hành tố tụng
của Tòa án, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Kiểm sát viên không đại diện bảo vệ
quyền, lợi ích của bên nào trong các bên tranh chấp nên không thực hiện
tranh tụng với các bên, việc đối đáp của đương sự đối với phát biểu của Kiểm
sát viên là không cần thiết.
Cần nhận thức đúng khoản 1 Điều 247 BLTTDS về nội dung và phương thức tranh tụng
tại phiên toà, không phải Kiểm sát viên có thực hiện hoạt động nêu tại Điều 247 BLTTDS thì tức là Kiểm sát viên tranh tụng mà phải kết
hợp với nội dung các quy định khác tại các điều 248, 249, 260
và 261 BLTTDS để xác định đúng chủ thể tranh tụng.
Câu 6. Hiện nay có Tòa án
cho rằng trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng đất đó xuất phát từ hợp
đồng hoặc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án vận dụng điểm 2 Mục II
Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC để xác định thẩm quyền
giải quyết vụ án là của TAND cấp huyện. Việc áp dụng pháp luật như vậy có đúng
không? (các VKSND tỉnh Phú Thọ, Đắk Nông)
Trả lời:
Khoản 4 Điều 34
BLTTDS quy định “Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự
trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật
tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh”.
Điểm 2 Mục II
Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC có nội dung: “...việc
cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động
trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản
3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không
mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt...Cho nên, khi giải quyết
tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu,
nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc
đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong
việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp
cho người nhận chuyển nhượng”. Như vậy, trong vụ án tranh chấp về hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất, có yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
cấp trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực hoặc yêu cầu huỷ xác nhận biến động
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì TANDTC cho rằng giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, xác nhận biến động trong trường hợp này không phải là quyết định
hành chính cá biệt, do đó, các Toà án cấp dưới không xác định thuộc thẩm quyền
TAND cấp tỉnh theo khoản 4 Điều 34 BLTTDS.
Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật
như trên chỉ đối với vụ án tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, đối
với vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất có yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, huỷ xác nhận biến động thì việc xác định thẩm quyền giải quyết của
Toà án thực hiện theo khoản 4 Điều 34 BLTTDS.
Câu 7. Công văn số 1083/VKSTC-V9
ngày 26/3/2024 của VKSND tối cao giải đáp vướng mắc trong công tác kiểm sát giải
quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình (Câu 30) có nêu: “Người được nhận
kỷ phần thừa kế do người khác nhường phải chịu án phí dân sự có giá ngạch
trên cơ sở giá trị kỷ phần được nhận từ người khác, trừ trường hợp họ được miễn
án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
UBTVQH”. Giải đáp này chưa thống nhất với Thông báo rút kinh nghiệm số
63/TB-VC1-V2 ngày 15/9/2023 của VKSND cấp cao tại Hà Nội: Theo quy định tại điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì
đương sự phải chịu án phí sơ thẩm theo mức tương đương với giá trị phần tài sản
mà họ được hưởng trong khối di sản thừa kế, trường hợp người được hưởng phần di
sản thừa kế mà tặng phần di sản mình được hưởng cho người khác thì họ vẫn phải
chịu án phí; còn người được nhận kỷ phần thừa kế do người khác nhường thì
không phải chịu án phí (VKSND tỉnh Quảng Ninh).
Trả lời:
Điểm a khoản 7
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Đối với vụ án liên
quan đến chia tài sản chung, di sản thừa kế thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ
thẩm được xác định như sau: a) Khi các bên đương sự không xác định được phần
tài sản của mình hoặc mỗi người xác định phần tài sản của mình trong khối tài sản
chung, phần di sản của mình trong khối di sản thừa kế là khác nhau và có một
trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó
thì mỗi bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với
giá trị phần tài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối tài sản chung hoặc
trong khối di sản thừa kế...”.
Như vậy, trường hợp bản án đã
tuyên rõ B là người được nhận kỷ phần thừa kế của A do A nhường (tặng cho) thì
cần hiểu B mới là người được hưởng tài sản trong khối di sản thừa kế (và trên
thực tế B là người được nhận phần này). Quyền và nghĩa vụ của B được thực hiện
theo bản án của Toà án nên xác định B phải nộp án phí đối với kỷ phần được người
khác nhường (tặng cho) là phù hợp về pháp luật và thực tế, công bằng với người
đã nhường (tặng cho) phần của mình cho người khác.
Câu 8. Việc xác định nghĩa vụ
chịu án phí dân sự sơ thẩm trong giải quyết tranh chấp xác định cha cho con còn
chưa thống nhất. Có Toà án áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Bị đơn
phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn được chấp nhận” để buộc bị đơn phải chịu án phí không có
giá ngạch. Có Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều
12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về người xin xác định cha, mẹ cho con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự được miễn nộp tiền
tạm ứng án phí, án phí để không buộc bị đơn phải chịu án phí (VKSND
tỉnh Quảng Ninh)
Trả lời:
Điều 9 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa
án như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng
lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án, trừ trường hợp không phải nộp hoặc được
miễn nộp...theo quy định của Nghị quyết này”. Như vậy, chủ thể có nghĩa vụ
nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án là cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Điểm b khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “1. Những trường hợp
sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:...b) Người yêu cầu cấp
dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự”. Quy định này được hiểu là trong vụ án dân sự hoặc việc
dân sự, người đưa ra yêu cầu xác định cha cho con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự sẽ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí; nếu yêu
cầu không được Toà án chấp nhận thì họ vẫn được miễn nộp án phí. Mặc dù quy định
dùng từ “trường hợp” nhưng việc miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí chỉ dành
cho chủ thể là người yêu cầu, không phải là miễn cho tất cả các chủ thể trong vụ
án.
Như vậy, trong vụ án tranh chấp
xác định cha cho con, nguyên đơn đưa ra yêu cầu xác định cha cho con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà yêu cầu không được Toà
án chấp nhận thì họ vẫn được miễn nộp án phí; nếu yêu cầu được Toà án chấp nhận
thì bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Nếu có yêu cầu xác định cha cho
con mà người con không thuộc trường hợp chưa thành niên hoặc đã thành niên
nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì nghĩa vụ chịu án phí thực hiện theo quy định
chung.
Câu 9. Hiện nay, nhiều vụ việc
dân sự bị kéo dài thời gian giải quyết do cơ quan, người có thẩm quyền không
cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng Toà án không thực hiện chế tài xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập tài liệu, chứng
cứ của cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 1
Điều 18 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động
tố tụng năm 2022 (VKSND tỉnh Bình Thuận).
Trả lời:
Trong quá trình kiểm sát việc
giải quyết vụ việc dân sự, khi phát hiện cá nhân, tổ chức liên quan có hành vi
cản trở hoạt động tố tụng của VKS (kể từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, vụ việc)
thì VKS thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo Công văn số 4086/VKSTC-V14 ngày
27/10/2022 của VKSND tối cao về việc quán triệt, triển khai Pháp lệnh Xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (Pháp lệnh số
02/2022).
Trường hợp VKS phát hiện hành
vi không cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền đến mức
phải xử phạt vi phạm hành chính theo điểm a khoản 1 Điều 18
Pháp lệnh số 02/2022 mà Toà án không xử phạt thì VKS trao đổi, kiến nghị
Toà án thực hiện.
Câu 10. Hiện có 02 quan điểm
nhận thức về các trường hợp thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tại các khoản 3 và 4 Điều 53 BLTTDS, thay đổi Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên tại khoản 2 Điều 60 BLTTDS như sau: Quan điểm thứ nhất
là tính theo vụ việc từ khi Toà án nhận đơn khởi kiện cho đến khi có bản án,
quyết định của Tòa án. Quan điểm thứ hai là tính theo nội dung tranh chấp. Vậy
quan điểm nào đúng? (VKSND tỉnh Đắk Nông).
Trả lời:
Các trường hợp thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân được quy định tại các khoản 3 và 4 Điều
53 BLTTDS như sau: “3. Họ đã tham gia giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó và đã ra
bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc,
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự...4. Họ đã là người
tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm tra viên, Thư ký
Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên”.
Trường hợp thay đổi Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên được quy định tại khoản 2 Điều 60 BLTTDS
như sau: “2. Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ việc đó
với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký
Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên”.
Theo các quy định nêu trên thì
việc tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên không được trùng lặp theo vụ việc; trừ trường hợp họ là thành viên của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao thì vẫn được tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm theo khoản 3 Điều 53 BLTTDS.
II. VỀ VIỆC
THỰC HIỆN BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Câu 11. Điều
562 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân
danh bên ủy quyền”, tuy nhiên pháp luật không quy định cụ thể công việc nào
được ủy quyền (VKSND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Pháp luật hiện hành không quy định
về công việc được ủy quyền, nhưng có quy định về các trường hợp không được ủy
quyền, trong đó có một số trường hợp cụ thể sau đây: Đăng ký kết hôn (Điều 8 Luật Hộ tịch); ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng
giải quyết việc ly hôn (Điều 85 BLTTDS); Đăng ký nhận cha,
mẹ, con (Điều 25 Luật Hộ tịch); Công chứng di chúc (Điều 56 Luật Công chứng); Có quyền, lợi ích hợp pháp đối lập với
người được ủy quyền, cán bộ, công chức trong cơ quan Toà án, Viện kiểm sát,
Công an (Điều 87 BLTTDS); Gửi tiền tiết kiệm tại tổ chức
tín dụng (Điều 12 Thông tư số 48/2018/TT-NHNN ngày
31/12/2018 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định về tiền gửi tiết
kiệm); ủy quyền cho người thứ ba trong việc mang thai hộ (Điều
96 Luật Hôn nhân và gia đình); Hạn chế việc ủy quyền của chủ đầu tư dự án
kinh doanh bất động sản (Điều 13 Luật Kinh doanh bất động sản);
Hạn chế việc ủy quyền của Chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị tổ chức tín
dụng (Luật Các tổ chức tín dụng)...
Như vậy, ngoại trừ những trường
hợp pháp luật quy định không được ủy quyền, người có quyền, nghĩa vụ có thể ủy
quyền cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, công việc
được ủy quyền phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: Là các việc xuất phát từ quyền,
nghĩa vụ của người ủy quyền theo quy định của pháp luật; Là các việc không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; Là việc phải thực hiện được...
Câu 12. Điều
569 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trường hợp ủy quyền không có thù lao
thì bên ủy quyền hoặc bên được ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất
cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên kia biết một thời gian hợp lý. Tuy
nhiên, việc xác định một bên đã hoàn thành nghĩa vụ báo trước là khó, dẫn đến
không đủ cơ sở xác định hợp đồng ủy quyền đã chấm dứt hay chưa (VKSND tỉnh
Lâm Đồng)
Trả lời:
Đối với hợp đồng ủy quyền không
có thù lao, Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bên ủy
quyền hoặc bên được ủy quyền được đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ
lúc nào nhưng phải báo trước cho bên kia biết một thời gian hợp lý. Theo Điều 428 Bộ luật Dân sự thì “Khi hợp đồng bị đơn phương chấm
dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo
chấm dứt”. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng là các bên không phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại
và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp; bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu
cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện; bên bị thiệt hại do hành vi
không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.
Như vậy, đương sự cho rằng mình
đã hoàn thành nghĩa vụ báo trước và hợp đồng đã chấm dứt có trách nhiệm chứng
minh việc đã báo trước và việc bên kia đã nhận được thông báo chấm dứt. Để xác
định việc báo trước có bảo đảm “thời gian hợp lý” hay không phải xem xét
đối với từng công việc ủy quyền cụ thể, thoả thuận về trách nhiệm báo trước của
các bên và thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên trong cả quá trình thực
hiện hợp đồng (thói quen, tập quán hành xử giữa các bên).
Câu 13. Trong hợp đồng ủy
quyền cho người khác tham gia tố tụng giải quyết vụ án tại Toà án có ghi thời hạn
ủy quyền là “kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ kiện bằng một bản án
có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Vậy thời điểm bắt đầu vụ kiện là khi
nào? (VKSND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Đây là trường hợp các bên có
thoả thuận về thời hạn ủy quyền trong hợp đồng. Để xác định chính xác thời hạn ủy
quyền trong trường hợp trên cần căn cứ vào các công việc được ủy quyền được ghi
trong hợp đồng, theo đó công việc đầu tiên bắt đầu từ thời điểm nào thì thời hạn
ủy quyền được xác định bắt đầu từ thời điểm đó. Ví dụ: công việc được ủy quyền
đầu tiên là nộp đơn khởi kiện thì tính thời hạn ủy quyền bắt đầu từ thời điểm
này.
Theo quy định của BLTTDS thì
khi Toà án thụ lý mới bắt đầu có vụ án dân sự hoặc việc dân sự, trước đó là việc
nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Sau khi Toà án thụ lý mới xuất hiện
tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự; người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự.
Đương sự có quyền, nghĩa vụ chung và riêng theo quy định của BLTTDS. Do đó, cần
căn cứ vào nội dung ủy quyền thực hiện quyền, nghĩa vụ gì để xác định thời điểm
bắt đầu thực hiện quyền, nghĩa vụ đó, trên cơ sở đó, mới xác định được chính
xác thời điểm bắt đầu thời hạn ủy quyền.
Câu 14. Trường hợp hợp đồng ủy
quyền được lập ở nước ngoài, do đương sự ở nước ngoài ủy quyền cho người ở Việt
Nam tham gia tố tụng giải quyết vụ án tại Toà án Việt Nam không ghi thời hạn ủy
quyền. Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hạn ủy
quyền là 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Vậy ngày nào là ngày xác lập
việc ủy quyền (ngày người ủy quyền ký hợp đồng, ngày người nhận ủy quyền ký hợp
đồng, ngày cơ quan chức năng của nước ngoài xác nhận hay ngày hợp pháp hóa lãnh
sự)? (VKSND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Trong trường hợp hợp đồng ủy quyền
không ghi thời hạn ủy quyền thì vẫn có thể xác định thời hạn ủy quyền trên cơ sở
các công việc được ủy quyền mà các bên đã thoả thuận, thống nhất trong hợp đồng
(thời hạn ủy quyền bắt đầu từ thời điểm thực hiện công việc đầu tiên và kết
thúc khi hoàn thành công việc cuối cùng được ủy quyền trong hợp đồng). Trường hợp
này có thể xác định là các bên đã có thoả thuận về thời hạn ủy quyền.
Điều 563 Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định “nếu không có thoả thuận và pháp luật không quy
định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền”.
Khoản 4 Điều
400 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “thời điểm giao kết hợp đồng bằng
văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay hình thức chấp nhận khác
được thể hiện trên văn bản”. Xác lập việc ủy quyền là do ý chí của các bên
quyết định nên thời điểm xác lập việc ủy quyền là thời điểm giao kết hợp đồng ủy
quyền, là thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng ủy quyền.
Theo khoản 2 Điều
2, Điều 3 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về chứng
nhận lãnh sự, hợp pháp hoá lãnh sự thì “hợp pháp hoá lãnh sự” là việc cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ,
tài liệu của nước ngoài để giấy tờ, tài liệu đó được công nhận và sử dụng tại
Việt Nam, không bao hàm chứng nhận về nội dung và hình thức của giấy tờ, tài liệu.
Như vậy, hợp pháp hoá lãnh sự là điều kiện để Toà án Việt Nam chấp nhận việc ủy
quyền, cho phép người được ủy quyền được tham gia tố tụng chứ không phải là
ngày xác lập, giao kết hợp đồng ủy quyền.
III. VỀ VIỆC
THỰC HIỆN LUẬT ĐẤT ĐAI
Câu 15. Đối với tranh chấp
quyền sử dụng đất thì phải đáp ứng điều kiện khởi kiện đã qua hòa giải tại Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo Điều
202 Luật Đất đai năm 2013, tuy nhiên trong thực tế có trường hợp hòa giải
không có đủ thành phần theo quy định của pháp luật. Hiện có 02 quan điểm về vấn
đề này như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng
việc hòa giải thiếu thành phần hòa giải là không đủ điều kiện khởi kiện nên trả
lại đơn khởi kiện cho đương sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng Điều 202 Luật Đất đai và Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày
05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC chỉ quy định điều kiện khởi kiện tranh
chấp quyền sử dụng đất là đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi có đất tranh chấp, việc trả lại đơn khởi kiện với lý do việc hòa giải
thiếu thành phần là không đúng (VKSND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Khoản 2 Điều 3
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
quy định “Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được
hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp
theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được
xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”.
Theo khoản 1 Điều
88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 57 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017, được
sửa đổi, bổ sung bởi các khoản 27, 28 Điều 1 Nghị định số
148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ thì khi nhận được đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện
các công việc sau:
“a) Thẩm tra, xác minh tìm
hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan
do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng
đất;
b) Thành lập Hội đồng hòa giải
tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng
thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời
tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa
đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường
hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
c) Tổ chức cuộc họp hòa giải
có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp
đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc hòa giải chỉ được tiến
hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp
vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành”.
Hiện nay, pháp luật không quy định
nếu Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai không đủ thành phần thì cuộc họp hòa
giải không được tiến hành hay việc hoà giải không có hiệu lực. Hội đồng hòa giải
tranh chấp đất đai không đưa ra quyết định, không biểu quyết theo đa số. Hơn nữa,
theo quy định trên thì Hội đồng có thành phần rất linh hoạt như “đại diện của
một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn
gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất; tùy từng trường hợp cụ thể, có thể
mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh”. Do đó, có một số thành phần Hội đồng không mang tính
bắt buộc.
Đối với tranh chấp đất đai cần
qua thủ tục hoà giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp vì đây thuộc loại
tranh chấp về quyền sở hữu (quyền sử dụng đất thuộc về ai) nên vai trò của cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai tại nơi có đất là rất quan trọng (là nơi quản
lý hồ sơ, tài liệu về nguồn gốc đất, nắm được quá trình sử dụng đất, những người
sử dụng đất, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất, thời điểm phát sinh
tranh chấp...), đây là cơ sở để Toà án có được thông tin để giải quyết đúng đắn
vụ án. Hơn nữa, việc hoà giải nhằm đến làm rõ quan điểm, ý chí, nguyện vọng của
các bên, giúp các bên thoả thuận, thống nhất được với nhau để chấm dứt tranh chấp;
do đó, khi các bên đã hoà giải không thành và khởi kiện thì không nên đặt nặng
những vấn đề mang tính hình thức của việc hoà giải mà làm chậm trễ việc giải
quyết tranh chấp của các bên. Vì vậy, quan điểm thứ hai là hợp lý.
IV. VỀ VIỆC
THỰC HIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU NGHIỆP VỤ CỦA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Câu 16. Theo Hệ thống chỉ
tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân (ban
hành kèm theo Quyết định số 139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng VKSTC)
thì chỉ tiêu rút kháng nghị phải ≤ 5% nhưng không loại trừ trường hợp rút kháng
nghị là do sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa hoặc vì lý do khách
quan khác, làm ảnh hưởng đến công tác xét thi đua của các VKS do không đạt chỉ
tiêu rút kháng nghị (các VKSND tỉnh Hoà Bình, Bắc Ninh, Bình Phước).
Trả lời:
Tại Mục 6.10 Phần
6 của Hướng dẫn thực hiện Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác
nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số
139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng VKSTC) đã quy định rõ phương
pháp tính chỉ tiêu kháng nghị phúc thẩm bị rút là không tính các trường hợp rút
do nguyên nhân khách quan.
Trên đây là giải đáp một số vướng
mắc về pháp luật và nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn
nhân và gia đình để các VKSND tham khảo, vận dụng trong quá trình thực hiện
công tác./.
Nơi nhận:
- Như Kính gửi;
- Đ/c Viện trưởng VKSNDTC (để báo cáo);
- Đ/c Nguyễn Duy Giảng, PVT VKSNDTC (để báo cáo);
- VP, V14, T2, T3 VKSNDTC (để biết);
- Lưu: VT, V9.
|
TL. VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Nguyễn Tiến Sơn
|