VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2307/VKSTC-V8
V/v Hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên
quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam
|
Hà Nội, ngày
16 tháng 6 năm 2016
|
Kính gửi:
|
- Viện trưởng VKS quân sự Trung ương
- Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao
- Viện trưởng VKSND cấp cao 1, 2, 3
- Viện trưởng VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
|
Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ
Luật Hình sự số 100/2015/QH13 (BLHS năm 2015), Nghị quyết số 109/2015/QH13 về
việc thi hành BLHS năm 2015; Bộ Luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 (BLTTHS
năm 2015), Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành BLTTHS năm 2015; Luật
Thi hành tạm giữ, tạm giam. BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015 và Luật Thi hành tạm
giữ, tạm giam có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 với những nội dung sửa
đổi, bổ sung lớn liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Cụ thể như sau:
- Điều 303 BLHS năm 1999 về tội
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật” quy định hai tình
tiết định tội là: (1) Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do
theo quy định của luật; (2) Không chấp hành quyết định trả tự do cho người được
trả tự do theo quy định của luật. Điều 377 BLHS năm 2015 về
tội này tiếp tục quy định 02 tình tiết định tội nêu trên, đồng thời bổ sung 03
tình tiết định tội mới là: (1) Quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ
theo quy định của luật; (2) Thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có
lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng
chưa có hiệu lực thi hành; (3) Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm
giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ,
tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
- So với BLTTHS năm
2003, BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ hơn, cụ thể hơn căn cứ áp dụng biện
pháp bắt, giữ, giam. Cụ thể như sau: Thay cụm từ “Khi có căn cứ để
cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng” (điểm a khoản 1
Điều 81 BLTTHS năm 2003) về bắt người trong trường hợp khẩn cấp bằng cụm từ “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện
tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015)
về giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
- BLTTHS năm 2015 bổ
sung quy định quyết định tạm giữ phải ghi rõ giờ, ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ; người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ
kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ
cho Viện kiểm sát (khoản 2 và khoản 4 Điều 117 BLTTHS năm 2015);
bổ sung quy định trong khi tạm giữ, nếu
không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Viện kiểm sát đã gia hạn tạm giữ phải trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ (khoản 3 Điều 118); cụ thể hóa căn cứ tạm giam “có căn cứ
cho rằng người đó có thể cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử” (điểm
b khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003) bằng quy định “khi có căn cứ xác định người đó có hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán
tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này” (điểm
đ, khoản 2 Điều 119 BLTTHS năm 2015).
- So với Điều
120 và Điều 303 BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 rút ngắn thời hạn tạm giam
để điều tra đối với tội phạm nghiêm trọng là 01 tháng, đối với tội phạm
rất nghiêm trọng là 02 tháng (khoản 2 Điều 173 BLTTHS
năm 2015); rút ngắn thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi, theo đó thời hạn này bằng hai phần ba (2/3) thời hạn tạm giam đối với
người đủ 18 tuổi trở lên và bổ sung quy định chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người
bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện
pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Khi không
còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời
hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác (Điều 419 BLTTHS năm 2015). Đồng thời,
Bộ luật quy định rõ mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ
khi thuộc một trong các trường hợp: a) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; b) Đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án; c) Đình chỉ điều
tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can; d) Bị cáo được Tòa án tuyên
không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt
tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ (khoản 1 Điều 125 BLTTHS năm 2015); và quy định
rõ “ Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai
đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác phải do Viện kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi
hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm
sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải thông
báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
khác” (khoản 2 Điều 125 BLTTHS năm 2015).
Để kịp thời thực hiện các nội dung sửa đổi, bổ
sung lớn liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam nêu trên, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân
sự các cấp thực hiện ngay các công việc sau đây:
1. Các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra,
Tòa án cùng cấp rà soát đầy đủ, chính xác các bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo thời hạn quy
định của BLTTHS năm 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 không được tạm giam theo
thời hạn quy định của BLTTHS năm 2015 hoặc thời hạn tạm giam vượt quá thời
hạn theo quy định của BLTTHS năm 2015 để đề nghị Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát có thẩm quyền (nếu vụ án đang ở giai đoạn điều tra, truy tố) hoặc
yêu cầu Chánh án, Phó Chánh án Tòa án có thẩm quyền (nếu vụ án đang ở giai đoạn
xét xử) quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện
pháp ngăn chặn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Kể từ ngày 01/7/2016, nếu có bị can, bị cáo chưa được hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc
chưa được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo hướng dẫn này thì VKSND
các cấp phải tổng hợp danh sách, gửi về VKSND tối cao (Vụ 8) và Viện kiểm sát
quân sự các cấp phải tổng hợp danh sách, gửi về Viện kiểm sát quân sự Trung
ương (Phòng 4) để xem xét, giải quyết.
2. Kể từ ngày 01/7/2016, các đơn vị
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra các vụ án hình sự phải
kiểm sát chặt chẽ các căn cứ và thời hạn áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam theo các quy định mới của BLTTHS năm 2015. Trường hợp xét thấy việc bắt, tạm
giữ, tạm giam không có căn cứ hoặc không cần thiết theo quy định của BLTTHS năm
2015; hoặc trong trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để
xem xét việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh tạm giam theo
quy định tại khoản 5 Điều 119 và khoản 3 Điều 179 BLTTHS năm 2015
nhưng cơ quan này không bổ sung được chứng cứ, tài liệu làm căn cứ cho việc phê
chuẩn thì Viện kiểm sát thực hiện thẩm quyền theo quy định của BLTTHS để ra quyết
định hủy bỏ hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh, quyết định và yêu cầu Cơ quan
điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trả tự
do ngay cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam. Đối với các lệnh, quyết định bắt,
tạm giam của Tòa án thì các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự phải kiểm sát chặt chẽ các căn cứ và thời hạn áp dụng biện pháp
này. Trường hợp xét thấy việc bắt, tạm giam không có căn cứ hoặc không cần thiết
theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu, kiến
nghị Tòa án theo quy định của BLTTHS.
3. Kể từ ngày 01/7/2016, trong quá
trình áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam, các đơn vị thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự phải thường
xuyên kiểm sát về thời hạn áp dụng các biện pháp này để kịp thời hủy bỏ hoặc
thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác (nếu vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố) hoặc yêu cầu Tòa án hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác (nếu vụ án ở giai đoạn xét xử) khi hết thời hạn luật định.
4. Đơn vị kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam phải kiểm sát chặt chẽ số người đang bị tạm giữ, tạm giam gần hết thời hạn
và việc thông báo bằng văn bản của cơ sở giam giữ cho cơ quan đang thụ lý vụ án
01 ngày trước khi hết thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ, 05 ngày trước
khi hết thời hạn tạm giam, 10 ngày trước khi hết thời hạn gia hạn tạm giam và yêu cầu cơ quan đang thụ
lý vụ án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Trường
hợp phát hiện cơ sở giam giữ không thông báo hoặc thông báo không đúng quy định
này thì lập ngay biên bản vi phạm và kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ sở giam
giữ thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Đơn vị kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam tăng cường công tác kiểm sát, phối hợp chặt chẽ với các
đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử để giải
quyết những trường hợp đang bị tạm giữ, tạm giam sắp hết thời hạn giam, giữ
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đã được cơ sở giam giữ thông báo gần
hết thời hạn, nhằm chấm dứt ngay việc quá hạn tạm giữ, tạm giam.
Đối với những trường
hợp quá hạn tạm giữ, tạm giam do chậm gửi các lệnh, quyết định tạm giữ, tạm
giam, đơn vị kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam cần xác định rõ nguyên nhân, trách
nhiệm của cơ quan, cá nhân; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm để kháng nghị,
kiến nghị yêu cầu xử lý vi phạm.
Kể từ ngày 01/7/2016, khi đã hết
thời hạn tạm giữ, tạm giam thì người bị tạm giữ, tạm giam phải được trả tự do
ngay, nếu họ không bị giam, giữ về một hành vi vi phạm pháp luật khác. Trường
hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác.
Trong trường hợp lệnh, quyết định
tạm giữ; lệnh, quyết định tạm giam ghi rõ: “Hết thời hạn tạm giữ, tạm giam này,
cơ sở giam giữ có trách nhiệm trả tự do cho người bị tạm giữ, tạm giam nếu họ
không bị giam giữ về hành vi vi phạm pháp luật khác”; thì đến ngày cuối cùng của
thời hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định của BLTTHS, đơn vị kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam phải tiến hành kiểm sát, nếu cơ sở giam giữ không trả tự do
thì ra văn bản yêu cầu cơ sở giam giữ trả tự do ngay cho người đang bị tạm giữ,
tạm giam. Trong văn bản yêu cầu nêu rõ: Cơ sở giam giữ không trả tự do ngay cho
người đang bị tạm giữ, tạm giam là vi phạm pháp luật và chịu hoàn toàn trách
nhiệm với những hậu quả có thể xảy ra.
Tăng cường công tác kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam nhằm kịp thời phát hiện các trường hợp tạm giữ, tạm giam
không có căn cứ và trái pháp luật. Nếu phát hiện việc tạm giữ, tạm giam không
có căn cứ và trái pháp luật, đơn vị kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam phải:
+ Lập biên bản vi phạm về việc tạm
giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật;
+ Báo cáo và tham mưu cho Viện trưởng
Viện kiểm sát cùng cấp căn cứ khoản 2 Điều 22 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 và điểm d khoản 2 Điều 42 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam; đồng thời
báo cáo ngay về VKSND tối cao (Vụ 8) để quản lý, chỉ đạo thống nhất;
+ Kháng nghị, kiến nghị cơ quan
đang thụ lý vụ án, cơ sở giam giữ (nếu có vi phạm), đồng thời thông báo cho Cơ
quan điều tra VKSND tối cao hoặc Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung
ương xem xét, xử lý đối với cá nhân có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật.
5. Kể từ ngày 01/7/2016, khi nhận
được khiếu nại, tố cáo liên quan đến hành vi giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
bắt, tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố thì các đơn vị
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo giải quyết ngay trong thời hạn 24 giờ
kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo. Trường hợp cần phải có thời gian để xác
minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá 03 ngày (khoản
1 Điều 474 và khoản 4 Điều 481 BLTTHS năm 2015). Đối với khiếu nại, tố cáo
liên quan đến quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, đơn vị kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam phải giải quyết theo thời hạn quy định tại Điều 50 và khoản 2 Điều 60 Luật thi hành tạm giữ, tạm
giam. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo được thực hiện theo Chương XXXIII BLTTHS năm 2015, Chương IX Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam và Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp ban hành kèm
theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng VKSND tối
cao.
Trong quá trình xác minh, giải quyết
khiếu nại, tố cáo liên quan đến hành vi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
tạm giữ, tạm giam hoặc trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam nếu thấy có dấu
hiệu tội phạm, phải thông báo, chuyển đơn và tài liệu, chứng cứ liên quan đến
Cơ quan điều tra VKSND tối cao (nếu thuộc thẩm quyền của VKSND); đến Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương (nếu thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát
quân sự) để xem xét, giải quyết.
Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương có trách nhiệm tiếp nhận, giải
quyết kịp thời tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố liên
quan đến hành vi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam;
quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong phạm vi thẩm quyền của mình. Thống
kê, tổng hợp đầy đủ số liệu tiếp nhận, giải quyết các tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố liên quan đến hành vi giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
bắt, tạm giữ, tạm giam; quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam để kiến nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật.
Nhận được Hướng dẫn này, Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc VKSND tối
cao, Viện trưởng VKSND cấp cao, Viện trưởng VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương tổ chức triển khai, quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm
thi hành đúng, đầy đủ các nội dung sửa đổi, bổ sung lớn liên quan đến việc bắt,
tạm giữ, tạm giam trong BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Nghị quyết số 110/2015/QH13,
Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành BLHS năm 2015, BLTTHS
năm 2015 và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
Trong quá trình thực hiện, nếu có
vướng mắc liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam, phải kịp thời báo cáo về
VKSND tối cao (Vụ 8) để tổng hợp, báo cáo Lãnh đạo VKSND tối cao chỉ đạo, hướng
dẫn (các văn bản gửi nhanh qua địa chỉ Email: VKSTC.V8@gmail.com)./.
Nơi nhận:
- Như trên (để t/h);
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để b/c);
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để b/c);
- Bộ Công an (để p/h chỉ đạo);
- Bộ Quốc phòng (để p/h chỉ đạo);
- Tòa án nhân dân tối cao (để p/h chỉ đạo);
- Đồng chí Viện trưởng VKSTC (để b/c);
- Các đ/c Phó Viện trưởng VKS
TC (để p/h chỉ đạo);
- VPTH VKSTC (để theo dõi, tổng hợp);
- Lưu VT, V8.
|
KT. VIỆN TRƯỞNG
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Lê Hữu Thể
|
PHỤ LỤC SO SÁNH
MỘT
SỐ ĐIỀU LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(Ban hành kèm theo hướng dẫn số 2307/VKSTC-V8 ngày 16 tháng 6 năm 2016 của
VKSND tối cao)
Theo
quy định của BLHS năm 1999, BLTTHS 2003
|
Theo
quy định của BLHS năm 2015, BLTTHS 2015
|
Điều 303. Tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật
1. Người nào lợi dụng chức vụ,
quyền hạn không ra quyết định hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho
người được trả tự do theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười
năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm
nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
|
Điều 377. Tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật
1. Người nào lợi dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Không ra quyết định trả tự
do cho người được trả tự do theo quy định của luật;
b) Quyết định bắt,
giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật;
c) Không chấp hành quyết định
trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;
d) Thực hiện việc bắt,
giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc
tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành;
đ) Không ra lệnh, quyết
định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm
giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị
giam, giữ quá hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Giam, giữ trái pháp luật từ
02 người đến 05 người;
b) Làm người bị giam, giữ
trái pháp luật bị tổn hại về sức khoẻ với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%;
c) Làm người bị giam, giữ
hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;
d) Đối với người dưới 18
tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng
hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
3. Phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Giam, giữ trái pháp luật
06 người trở lên;
b) Làm người bị giam, giữ
trái pháp luật tổn hại về sức khoẻ với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%
trở lên hoặc chết;
c) Làm người bị giam, giữ
tự sát;
d) Làm gia đình người bị
giam, giữ ly tán.
4. Người phạm tội còn bị cấm
đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
|
Điều 81. Bắt người
trong trường hợp khẩn cấp
1. Trong những trường hợp sau đây
thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng
người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người
có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người
đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội
phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền
ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội
độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo
và biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu
biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Nội dung lệnh bắt và việc
thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại
khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này.
4. Trong mọi trường hợp, việc
bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm
theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt
chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện
kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ
khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp,
Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu
Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự
do ngay cho người bị bắt.
|
Điều 110. Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp
1. Khi thuộc
một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:
a) Có đủ
căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng
thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm
chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết
của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của
người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
2. Những người
sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Thủ trưởng
đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ
huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh,
thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội
biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng,
Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng;
Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực
lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma
túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
c) Người chỉ
huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ,
lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định
tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Việc thi hành lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều
113 của Bộ luật này.
4. Trong thời
hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người
quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ,
ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc
Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để
xét phê chuẩn.
Sau khi giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều
này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người
trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng
đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ,
Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản
2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu
liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ,
lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định
tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
5. Hồ sơ đề
nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
gồm:
a) Văn bản đề
nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
b) Lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, quyết định tạm giữ;
c) Biên bản
giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
d) Biên bản
ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
đ) Chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
6. Viện kiểm
sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản
ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập
phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án.
Trong thời hạn
12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê
chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.
|
Điều 86. Tạm giữ
1. Tạm giữ có thể được áp dụng
đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
2. Những người có quyền ra lệnh
bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng
vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
Người thi hành quyết định tạm
giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều
48 của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ
khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần
thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra
quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi
rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một
bản.
|
Điều 117. Tạm giữ
1. Tạm giữ có
thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối
với người bị bắt theo quyết định truy nã.
2. Những người
có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này
có quyền ra quyết định tạm giữ.
Quyết định tạm
giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ,
ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ và các nội dung
quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Quyết định tạm giữ phải
giao cho người bị tạm giữ.
3. Người thi
hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người
bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ
khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định
tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có
căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định
tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ.
|
Điều 87. Thời hạn tạm
giữ
1. Thời hạn tạm giữ không được
quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong trường hợp cần thiết,
người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày.
Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ
lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận
được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm
sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu
không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được trừ
vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
|
Điều 118. Thời hạn tạm giữ
1. Thời hạn tạm
giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp
giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều
tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
2. Trường hợp
cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá
03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp
gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm
quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn
tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn.
3. Trong
khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được trừ
vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
|
Điều 88. Tạm giam
1. Tạm giam có thể được áp dụng
đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là
phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu,
người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị
bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm
trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm
phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ
thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người có thẩm quyền
ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm
giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80
của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét
phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải
ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải
hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải
kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người
bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
|
Điều 119. Tạm giam
1. Tạm giam
có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng.
2. Tạm giam
có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định
người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có
nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và
bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm
tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có
hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp
tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án,
tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng,
bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Tạm giam
có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình
sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và
bị bắt theo quyết định truy nã.
4. Đối với bị
can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người
già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm
giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và
bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục
phạm tội;
c) Có hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán
tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị
cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm
giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
5. Những người
có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh,
quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản
1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề
nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải
ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải
hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
6. Cơ quan điều tra phải kiểm
tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm
giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.
|
Điều 120. Thời hạn tạm
giam để điều tra
1. Thời hạn tạm giam bị can để
điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba
tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra
và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất
là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề
nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy
định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng
có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và
lần thứ hai không quá một tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm
trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba
tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn
tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam
của Viện kiểm sát được quy định như sau:
a) Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm
ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng
và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở
cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát
quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Trong trường hợp gia hạn tạm
giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết
thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm
giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có
thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam
lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trong trường hợp vụ án được
thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định
tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp
mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Trong khi tạm giam, nếu xét
thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời
đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm
giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam
thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần
thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
|
Điều 173. Thời
hạn tạm giam để điều tra
1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không
quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời
gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ
quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một
lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một
lần không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một
lần không quá 03 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam
hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát:
a) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có
quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng
và tội phạm rất nghiêm trọng. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh,
Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia
hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm
a khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều
tra Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ
lý điều tra thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá
04 tháng. Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam quy định tại khoản này đã hết
mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng,
không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà không có căn cứ để hủy
bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định
việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
6. Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không
phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng; trường hợp đặc biệt không có
căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
7. Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp
tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ
việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết
thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời
hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét
thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác.
|
Điều 303. Bắt, tạm giữ,
tạm giam
1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều
80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp
phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều
80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp
phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ,
tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp
pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
|
Ðiều 419. Áp dụng biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
1. Chỉ áp dụng
biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết.
Chỉ áp
dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp
ngăn chặn khác không hiệu quả. Thời hạn tạm giam đối với người
bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với
người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ luật này. Khi không còn căn
cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ,
thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
2. Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm
giữ, tạm giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật hình sự nếu
có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a, b, c, d và đ khoản
2 Điều 119 của Bộ luật này.
3. Người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm
giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a,
b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật này.
4. Đối với bị
can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục
phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
5. Trong thời
hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm
giam, người ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người
dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết.
|
Không quy định rõ
|
Điều 125. Hủy bỏ hoặc thay
thế biện pháp ngăn chặn
1. Mọi biện pháp
ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự;
b) Đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án;
c) Đình chỉ điều
tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;
d) Bị cáo được
Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt,
hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ.
2. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần
thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Đối với những
biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì
việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát
quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp
ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề
nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết
định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.
|